Lê tắc. P07

An Nam Chí Lược

Chương  07
An Nam Chí Lược Gia thế Họ Trần
Gia thế Họ Trần
Đời thứ nhứt (tức Trần-Thừa)
Người Giao-Chỉ, ngoại-thích của nhà Lý. Cuối cuộc loạn đời Lý, Trần-Thừa cùng em là Kiến-Quốc đánh giặc có công, được phong chức Thái-Uý; Kiến-Quốc được làm đại-tướng-quân. Con trai lấy con gái của Lý-Huệ-Vương là Chiêu-Thánh, nhân đó được truyền ngôi (Thừa chết, truy tặng Thái-Tổ).
Đời thứ hai (tức Trần-Cảnh)
Con giữa của Thái-Tổ, tính người khoan nhân thông tuệ, văn võ toàn tài, lấy tư cách con rể nhà Lý kế vị quốc-vương. Chiêu-Thánh-Hậu không con. Cảnh lại lấy người em vợ 1 sinh được ba người con trai.

Đầu đời Thiệu-Định (1228-1233) nhà Tống khiến sứ tiến cống, Lý-Tông phong làm An-nam quốcvương chức kiểm-hiệu thái-úy, kiêm Ngự-sử đại-phu, Thượng-trụ-quốc, cho hiệu là Hiệu-Trung Thuận-Hoá, bảo-tiết thủ-nghĩa, hoài-đức qui-nhân, Tịnh-hải-quân tiết-độ, quan-sát xử-trí đẳng sứ, thực ấp 11.000 hộ, thật phong 4200 hộ. Năm Bửu-Hựu thứ 6 (1258), dâng biểu xin kế vị. Năm Cảnh-Định thứ hai (1261), lại khiến sứ tiến cống. Vua Tống xuống lời dụ chiếu khen và sai sứ-thần đem cho vàng và phápcẩm 2.

Tháng 12 năm Đinh-Tỵ (1257), đời Đại-Nguyên, đại-súy Ngột-Lương-Hộp-Đãi đem binh từ Vân Nam đi qua biên-ấp An-nam. Người trong nước kháng cự, bị quan quân đánh phá, sợ phải đầu hàng. Qua năm Mậu-Ngọ (1258) Vương đổi tên là Quang-Bính, khiến bồi-thần 3 dâng biểu nạp khoản, xin giữ chức phận phụng công. Năm ấy, Vương nhường ngôi cho con tức Thánh-Tông.

Năm Trung-thống thứ 6 4, sắcchế phong làm An-Nam Quốc-Vương và ban cho hổ-phù quốc ấn. Năm Chí-Nguyên thứ 8 (1271) khiến sứ tiến cống. Triều-đình khiến sứ đem chiếu-thư, dụ khiến An-nam phải ba năm một lần tiến cống, sẽ cho lễ-vật hồi đáp và dụ Trấn-Vương vào bệ kiến. Vương lấy cớ đương đau từ chối.

Năm Chí-Nguyên thứ 14 (1277), Trần-Vương mất.

(Ở ngôi 18 năm 5 thọ 60 tuổi, thụy-hiệu Thái-Vương).

Đời thứ ba (tức Trần-Hoảng):

Trần-Hoảng tức Trần-Thánh-Tông, trước đặt tên là Thế 6, con thứ vua Thái-Vương, dáng người khôi ngô có nhã lượng. Năm Mậu-Ngọ (1258) thay cha già lên làm vua, khiến sứ tiến cống nhà Tống. Khoảng niên hiệu Bửu-Hựu (1253-1258) Tống-Lý-Tông phong làm An-nam quốc-vương. Lúc đầu cha con đều thần-phục thiên-triều, đến lúc cha mất, Thế-Tử tự lập làm vua, chẳng xin mệnh lệnh của Thiên-Tử.

Năm Chí-Nguyên thứ 15 (1278), vua (vua nhà Nguyên), khiến Lễ-Bộ Thượng-thư Sài-Thung dụ vào bệ kiến. Thế-Tử lấy cớ đau từ chối và truyền ngôi cho con. Năm thứ 17 (1280), vua lại khiến Sài-Thung đem chiếu-thư qua dụ. Thế-Tử sợ, khiến người chú là Trần-Di-Ái thay mình vào chầu, bèn lập Di-Ái làm An-nam quốc-vương. Năm thứ 19 (1282) phong Sài-Thung làm An-nam Tuyên-uý-sứ Đô-nguyên-soái, khiến đem 1000 quân, hộ tống Di-Ái về nước và xuống chiếu hiểu dụ dân An-nam, các hàng tôn-thất và quan lại. Thế-Tử không vâng theo chiếu-chỉ, truất Di-Ái làm thứ dân. Năm thứ 19 (1282), lại khiến sứ dụ Thế-tử vào triều kiến và mượn đường tiến binh đánh Chiêm-Thành, khiến An-nam phải giúp quân, cung cấp lương thực. Thế-Tử từ chối, nói đau lâu ngày, không thể vào chầu và nước nhỏ không có quân để giúp.

Mùa đông tháng 12 năm thứ 21 (1284), đại-quân của Trấn-Nam-Vương áp đến biên cảnh. Thế-Tử đem cả nước nghênh địch, đánh thua, bèn bỏ thành trốn, cận-thần bọn Trần-Ích-Tắc, Trần-Kiện, Trần-Tú-Viên, Trần-Văn-Lộng đều đầu hàng. Tháng 4 năm sau (1285) quốc-dân thừa lúc viêm nhiệt, đánh thâu phục La-Thành. Tháng 5, Trấn-Nam-Vương, vì cớ nước lụt, rút quân về. Năm thứ 21 (1284) Thế-Tử dâng biểu tạ tội. Triều-đình giam sứ-thần lại và khiến Trấn Nam-Vương đem quân qua đánh một lần nữa.

Tháng 12 đại-binh đến, Thế-Tử đánh thua, chạy trốn ra hải-đảo, sau lại thừa tiện trở về tập kích. Tháng 3 năm sau Trấn-Nam-Vương, vì cớ trời nắng, ẩm thấp, rút quân về. Thế-Tử khiến con thay mình vào tạ tội 7 tiến cống thổ-sản. Năm thứ 27 (1290), lại khiến sứ tiến cống, vua khiến đề-hình án-sát ty bọn Lưu Đình-
Trực đem chiếu-thư qua hiểu dụ. Năm sau (1291) Thế-Tử mất.

(Ở ngôi 31 năm, thọ 51 tuổi, thụy-hiệu Thánh-Vương).

Đời thứ tư (tức Nhân-Tông)

Năm Chí-Nguyên thứ 15 (1278), lấy cớ cha già thoái-vị, dâng biểu xin kế tập, vua không cho.

Năm thứ 28 (1291) vua khiến Lễ-Bộ Thượng-thư Trương-Lập-Đạo dụ vào triều kiến. Năm sau, (1292) Nhân-Vương khiến bồi-thần đến cửa khuyết tạ lỗi và xin chờ hết tang cha sẽ vào chầu. Năm thứ 30 (1293) vua khiến bọn Lương-Tăng, Binh-Bộ Thượng-thư, dụ vào bệ-kiến, Nhân-Vương lấy cớ đau từ chối, khiến tướng-thần Đào-Tử-Kỳ tiến cống. Triều-đình giữ Tử-Kỳ ở Giang-Lăng, lập An-nam hành-tỉnh, khiến bọn Bình-Chương Lưu-Nhị Bạt-Đô đem binh đóng Tĩnh-Giang, chờ ngày tiến đánh. Mùa xuân tháng giêng năm thứ 31 (1294), Thế-Tổ băng hà. Tháng tư mùa hạ, Thanh-Tông hoàng-đế lên ngôi, xuống chiếu bãi binh, khiến Lễ-Bộ Thị-Lang Lý-Hãn đem chiếu-thư tha tội, thả bồi-thần Đào-Tử-Kỳ về nước. Năm Nguyên-Trinh thứ hai (1296), Nhân-Vương khiến sứ tiến cống, dâng biểu xin phong vương-tước. Triều đình không y thuận, chi cho một bộ Kinh Đại-Tạng theo lời xin. Năm Đại-Đức thứ 5 (1301), vua khiến bọn Thượng-thư Ma-Các-Ma đem sứ An-nam bọn Đặng-Nhữ-Lâm về nước, dụ An-nam theo lệ trước, ba năm một lần tiến cống, đến kỳ cứ tự vào, Triều-đình không sai sứ qua nữa. Mùa xuân năm sau (1302),

Nhân-Vương khiến Lê-Khắc-Phục vào cống. Năm đầu Chí-Đại (1308) lại khiến sứ vào cống, triều-đình khiến bọn An-Lỗ-Oai, Lễ-Bộ Thượng-thư, ban chiếu lên ngôi của Vũ-Tông Hoàng-đế. Sứ-thần đến, Nhân-Vương đã mất.

(Ở ngôi 15 năm, thọ 53 tuổi, thụy-hiệu Nhân-Vương. Lúc đầu học đạo Phật, thình lình một ngày, thoạt giác-ngô).

Đời thứ năm (tức Anh-Tông):

Anh-Tông kế lập, khiến sứ vào cống, chúc mừng Võ-Tông Hoàng-Đế lên ngôi. Năm Chí-Đại thứ 4 (1311) lại khiến sứ vào cống. Mùa đông năm ấy, triều-đình khiến bọn Nãi-Mã-Thái, Lễ-Bộ Thượng-thư, qua tuyên dụ tờ chiếu lên ngôi của vua Nhân-Tông Hoàng-Đế. Sứ thần đến, Anh-Vương đương đem binh
đi đánh Chiêm-Thành và bắt được vua nước ấy. Đến tháng 6 năm Nhâm-Tý (1312) niên-hiệu Hoàng-Khánh, quân mới trở về, bèn nghênh bái chiếu-thư, khiến sứ cống mừng và dâng biểu xin lỗi. Đầu năm Diên-Hựu (1314) triều-đình cho lễ-vật hồi đáp. Năm Diên-Hựu thứ 6 (1319) Vương tạ thế, thụy-hiệu Anh-Vương.

Đời thứ sáu (tức Minh-Tông):

Minh-Tông nối ngôi. Năm Diên-Hựu thứ 7 (1320) khiến sứ tiến cống. Năm đầu hiệu Chí-Trị (1321), Anh-Tông Hoàng-đế lên ngôi. Minh-Vương khiến sứ tiến cống, mừng lễ đăng-quang. Năm đầu hiệu Thái-Định (1324), khiến Lại-Bộ Thượng-Thư Mã-Hiệp-Mưu, Lang-Trung Dương-Tông-Thụy đem chiếu thư qua dụ. Minh-Vương khiến sứ tiến cống. Năm đầu hiệu Chí-Thuận (1330), lại tiến cống. Năm sau (1331), triều-đình khiến bọn Sát-Chỉ-Ngoả, Lại-Bộ Thượng-thư, qua tuyên chiếu-thư lên ngôi của Văn-Tông Hoàng-đế. Năm sau (1332), khiến sứ tiến cống, mừng lễ đăng-quang. Năm đầu hiệu Chí-Nguyên (1335), triều đình khiến bọn Thiết-Trụ, Lại-Bộ Thượng-thư, qua tuyên chiếu-thư lên ngôi của Hoàng-đế hiện nay. Lúc ấy, Anh-Vương đã truyền ngôi cho con, lui về học đạo, xưng hiệu Thái-Hư-Tử. Phàm những biểu-chương tiến cống còn vẫn dùng tên cũ. Năm Chí-Nguyên thứ 5 (1339) lại khiến sứ tiến cống.

Các Vương-Hầu Nội-Phụ

Trần-Ích-Tắc:
Con thứ 5 của Thái-Vương, thông minh tuấn-tú, có tính hiếu học. Lúc ở nước nhà, được phong tước Chiêu-Quốc-Vương, kiêm chức Đại-tướng-quân, trấn giữa lộ Đà-Giang.

Mùa đông, năm Giáp Thân, hiệu Chí-Nguyên (1284), đại-binh của Trấn-Nam-Vương tiến vào biên-giới, anh là Thế-Tử, đem cả nước chống địch, bị thua chạy.

Năm sau, (1285) Ích-Tắc đem gia-quyến đầu hàng Trung-Quốc. Tháng 5, theo Vương sư về Tàu. Mùa thu vào bệ kiến.

Mùa xuân tháng 2, năm Bính-Tuất hiệu Chí-Nguyên (1286), vua Thế-Tổ thương Tắc có lòng trung hiếu, đặc ân phong cho tước An-nam-vương, quang-lộc đại-phu, ban cấp phù ấn, cho tiền 5.000 quan. Con trưởng tên Bá-Ý, được phong chức Gia-Nghị đại-phu, lĩnh An-Vũ- Sứ lộ Đà-Giang (hư chức), ban cho áo mũ, cung tên, yên cương và ngựa.

Năm Đinh-Hợi (1287) được chi cấp nguyệt-bổng, mùa đông theo quân về nước. Tháng giêng năm sau (1288), đại-binh đánh quốc-đô, Thế-Tử chạy trốn, quan quân tìm đánh không được. Tháng 3, Trấn-Nam-Vương vì viêm-nhiệt và ẩm thấp rút về. An-nam quốc-vương (tức Ích-Tắc) theo đại-quân về đất Ngạc.

Mùa thu vào bệ kiến, được cấp áo nệm và cho tiền một vạn quan. Đến năm Nhâm-Thìn (1292), lại được gia chức Hồ, Quảng Đẳng xứ Hành-Trung-Thư-Sảnh, Bình-Chương Chính-Sự. Năm Quý-Tỵ (1293), mới khiến sứ dâng biểu, mừng tiết Thiên-Thọ. Mùa xuân năm Giáp-Ngọ (1294), đem quân qua đánh nước Nam, nhưng lại bãi binh, về ở Ngạc-Châu. Mùa hạ tháng 4, Thành-Tông hoàng-đế lên-ngôi, vào bệ-kiến, được cho tiền 5 vạn quan.

Năm Tân-Sửu (1301), hiệu Đại-Đức lại vào bệ-kiến, được ban tiền 5 vạn và cho các quan tùy thuộc 5.000 quan. Tháng giêng mùa xuân năm Ất-Tỵ (1305), khiến sứ đến Kinh-đô, dâng thỏ bạch. Vua vời sứ vào đến Ngọc-Đức uỷ-lạo và cho của nội-phủ đại-tử-kim-đoạn hai cây để đáp lễ. Năm Bính-Ngọ (1306) vua
ban cho Ích-Tắc 200 khoảnh ruộng và các thuộc quan bọn An-Phủ-sứ Vương-Nghị 200 khoảnh ruộng.

Mùa thu năm Đinh-Tỵ (1307), Trần-Ích-Tắc khiến Lại-Ích-Qui và Lê-Tắc dâng biểu mừng Vũ-Tông Hoàng-đế lên ngôi. Lúc Hoàng-Thái-Thử chính vị đông-cung, Ích-Tắc có vào yết-kiến. Năm Mậu-Thân, niên-hiệu Chí-Đại (1308), Ích-Tắc được gia-phong chức Ngân-Thanh-Vinh-lộc đại-phu và được ban cho
150 lượng bạc.

Tháng ba mùa xuân năm Tân-Hợi (1311), Nhân-Tông hoàng-đế lên ngôi. Mùa thu Ích-Tắc dâng biểu mừng. Năm Nhâm-Tý (1312) hiệu Hoàng-Khánh, Ích-Tắc vào bệ-kiến được gia-chức Kim tử quang-lợi đại-phu, cho tiền 50.000 quan, đai vàng một chiếc, kim-đoạn bốn cây.

Năm Mậu-Ngọ (1318) hiệu Diên-Hựu, vào bệ-kiến được gia chức Nghi-đồng tam-ty.

Tháng ba mùa xuân năm Canh-Thân (1320) Anh-Tông Hoàng-đế lên ngôi; Ích-Tắc khiến sứ dâng biểu mừng, được ban lễ vật hồi đáp.

Năm Mậu-Thìn (1328), hiệu Thiên-Lịch, Văn-Tông hoàng-đế lên ngôi, dâng biểu mừng, được ban thưởng rất hậu.

Tháng 4 năm sau (1329) Ích-Tắc qua đời, hưởng thọ 76 tuổi, an-táng ở núi Hạ-Gia, đất Hán-Dương. Hồ-Quảng Hành-Tỉnh tâu lên triều-đình, Hoàng-đế thương lòng trung-nghĩa, truy tặng thụy-hiệu TrungÝ-Vương, cho tiền 5.000 quan làm lễ phúng điếu.

Ích-Tắc tính ưa đạo Phật, Lão, làm thơ hay, có cho ra đời tập thơ Củng-Cực-Lạc-Ngâm 8 . Năm Giáp-Tuất (1334), hiệu Nguyên-Thống, con là Tuyên-vũ-sứ Trần-Đoan-Ngọ, vào bệ-kiến, Hoàng-đế đương-kim khiến tập tước cha làm An-nam quốc-vương, được ân sủng rồi trở về.

Trần-Tú-Viên:
Cháu gọi An-nam quốc-vương bằng bác, con của Vũ-Đạo-Hầu, dáng người thanh tú, có tài văn chương.

Mùa đông năm Giáp-thân, niên-hiệu Chí-Nguyên (1284), đại binh đến An-nam. Mùa xuân năm sau (1285), Tú-Viên khuyên cha mẹ qui thuận. Tháng 4 vào bệ kiến. Lúc bỏ nước ra đi, dọc đường giaquyến bị tử-vong hết tám người, làm thơ ai-điếu có câu:

"Tam thế bát tang thiên-cổ thống,
Nhất thân vạn lý bách niên cô".
nghĩa là:
Ba đời chịu tám tang, đau thương nghìn thuở,
Một mình ngoài muôn dặm, cô quạnh trăm năm.

Tháng 9 đến Kinh-Sư, Hoàng-thượng ngợi khen và xuống chiếu phong làm Phụ-Nghĩa-Công, Tư-Thiện-Đại-phu, cấp hổ-phù, cho tiền 5.000 quan, cho người con là Đứ-Tiệm làm chức Tuyên-vũ-Sứ Annam Phủ-Lộ, Gia-Nghị đại-phu. Người em cô cậu là Lại-Ích-Qui làm chức An-vũ-sứ Nam-Sách Giang-Lộ, Gia-Nghị đại-phu. Năm Ất-Hợi, hiệu Chí-Nguyên (1335), các người đều được cho cung tên, tiền bạc, yên ngựa để đi theo quân qua đánh An-nam. Năm sau, (1336), trở về Hán-Dương. Trấn-Nam-Vương cưới người em gái làm thứ-phi, sinh được hai con. Tháng 5 năm Ất-Sửu 9 hiệu Chí-Nguyên, Tú-Viên mất ở Túy-Sơn? Viên có tập ngâm-cảo truyền đời, lúc đầu ngụ ở Vũ-Xương.

Trần-Văn-Lộng:
Con của Nhân-Thành-Hầu, Trần-Duyệt, cháu nội của quốc-thúc thái-sư Trần-Thủ-Độ, ở nước nhà được phong tước Chương-Hoài-Thượng-Hầu, tính người khiêm tính ôn hoà, được quốc-vương dùng làm đại-tướng, trấn thủ sông Tam-đái. Mùa đông năm Giáp-Thân, hiệu Chí-Nguyên (1284), đại binh của Trấn-Nam-Vương đến An-nam. Năm sau, (1285), Văn-Lộng đem gia-quyến nội-phụ Thiên-triều, được cho làm chức Gia-Nghị đại-phu, Tuyên-Vũ-Sứ Qui-Hoá Giang-Lộ, cho tiền, lụa, cung tên, yên ngựa, theo quân đánh dẹp, hiệu lực có công. Năm Tân-Mão, hiệu Chí-Nguyên (1291), vào triều-kiến được tuyên mệnh thăng Trung-đại-phu, Tuyên-Úy-Sứ Quảng-Tây-đạo, cho tiền 25.000 quan, kim-đoạn hai cây. Năm Bính-Ngọ, hiệu Đại-Đức (1306), đình chỉ cấp lương tháng cho thuộc-liêu, cho ruộng 100 khoảnh để tự dưỡng.

Năm Nhâm-Tý hiệu Hoàng-Khánh (1312), vào yến-kiến, chuyển qua ngạch Chánh-Phụng đại-phu, chức như cũ. Tháng 2 năm sau, (1313), Văn-Lộng mất, chôn ở hồ Mã-Gia đất Hán-Dương, con cháu phụng thờ chẳng dứt.

Trần-Kiện :
Con của Tịnh-Quốc-Vương, cháu nội của Thái-Quốc-Vương, ở bản quốc được phong Chương-Hiến Thượng-Hầu, tướng mạo khôi ngô, đọc thuộc binh-thư, giỏi việc bắn cung, cỡi ngựa, thay cha lĩnh chức Tịnh-hải-quân Tiết-Độ-sứ, cưới nàng Quỳnh-Huy, con gái Thái-Sư Chiêu-Minh-Vương, sinh con là Mặc-Hầu.

Năm Giáp-Thân, hiệu Chí-Nguyên (1284), nhân cùng con của Thế-Tử là Tá-Thiên-Vương có hiềm khích, giả thác theo học đạo Trang, Lão, về làng Nhân-Mục ẩn-cư. Mùa đông năm ấy, đại-quân Trấn-Nam-Vương vào nước, Thế-Tử đánh thua. Hữu-Thừa Toa-Đô lại từ Chiêm-Thành đánh tập hậu, Thế-Tử hoảng hốt, không tính được chước gì, bèn khởi phục Trần-Kiện, khiến đem quân cự Toa-Đô. Sức yếu, không có viện binh, Thế-Tử thì mất còn chưa biết, Kiện bảo với bọn Lê-Tắc rằng: "Thế-Tử bị Thiên- Tử chỉ triệu, chẳng chịu vào chầu, đến đỗi gây việc binh đao, nguy-cơ sắp đến, thế mà còn chấp mê, chẳng tỉnh ngộ, nở để cho nhà tan nước mất hay sao?". Tháng giêng năm sau (1285), Kiện đem bọn Lê-Tắc vài vạn người, dâng binh-khí xin hàng. Trấn-Nam-Vương khen ngợi và ban thưởng xiêm áo, yêncương.

Mùa hạ tháng 4, Vương khiến Minh-Lý-Tích-Ban dẫn bọn Chương-Hiến vào ra mắt Thiên Tử. Ngựa trạm đến ải Chi-Lăng, bị quốc dân ngày đêm vây đánh. Bọn Chương-Hiến cùng các quan bồi-bạn phá vòng vây chạy ra đàng trước, lại bị chúng đón đánh, xe cộ chở lương-thực đều bị cướp phá sạch. Chương-Hiến tính người khiêm cung nhã-lượng, đãi kẻ dưới rất có ơn, nhân dân ai cũng thương mến, chẳng may giữa đường tử nạn, không đem được việc mình tâu với triều-đình, chẳng được hưởng ơn điển sinh phong tử tặng. Lúc ở nước ra đi, có bà quốc-mẫu-cô Lê-Thị và mấy người thân quyến cùng đi, đều bị quốc-dân bắt giết, đau đớn biết chừng nào. Chỉ có ông ngoại là thân-huynh của Thế-Tử được thoát chết.

Chú Thích :
1- Chị vợ chứ không phải em vợ, tức bà Thuận-thiên Công-chúa, vợ của Trần Liễu.
2- Gấm để may y phục theo pháp-chế.
3- Sứ thần thuộc quốc gọi là bồi thần.
4- Trung Thống chỉ có 4 năm (1260-1263).
5- Trần Thái Tông chỉ làm vua từ năm Ất Dậu (1225) đến năm Mậu Ngọ (1258), cộng 33 năm, ở đây chép 18 là sai.
6- "Thế" có lẽ sai nhầm, các sử sách về Việt Nam chép là "Hoàng".
7- Theo sử ta, thì việc nầy không có.
8- Củng Cực nghĩa là triều cũng ngôi. Hoàng cực, tức qui thuận Hoàng đế nhà Nguyên.
9- Niên hiệu Chí Nguyên không có năm Ất Sửu, có lẽ là năm Kỷ Sửu (1349) mà chép sai, vì chữ "Ất" và chữ "Kỷ" hơi giống nhau.

Hết An Nam Chí Lược Gia thế Họ Trần

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét