Lê tắc. P12

An Nam Chí Lược

Chương  12
An Nam Chí Lược Thơ của các danh-nhân An-Nam Quyển Đệ Thập Bát

Thơ của các danh-nhân An-Nam
Trần-Thái-Vương đưa Thiên-sứ Trương-Hiển-Khánh
(Trương-Hiển-Khánh đi sứ Annam hai lần)
Mảy may thẹn chửa đáp ơn sâu,
Hút mắt sông cồn những ngán ngao.
Vỏ kiếm gió thu reo mỏn ngựa,
Án thư bóng nguyệt lọt rường lầu1.
Én về cõi bắc khôn lưu trú,
Nhạn biệt trời nam những gợi sầu.
Nghiêng lọng2 bao giờ ngày tái-ngộ?
Tiễn đưa thơ hứng tạm vài câu.

Nội-phụ An-nam quốc-công Thiện-Lạc Lão-nhân (5 bài)
Xuất quốc:


Bỏ nước ra đi nhớ tự ngày,
Lòng trung cánh cánh có trời hay.
Chẳng qua Vi-Tử buồn Ân mất3,
Há phải Văn-Công trốn nước ngoài4.
Nghề mọn cơ cầu noi nghiệp trước5,
Tiếng thơm sử sách để sau nầy.
Ngày nay bốn biển chung đường lối 6
Nhà cũ xa trông núi Việt dài.

Chầu yến ở đền Đại-Minh

Ngọc-ban chầu chực áng mây hồng,
Mặt nhật hây hây khí ấm lồng.
Sao sáng muôn ngôi chầu hướng bắc,
Nước triều trăm ngọn chảy về đông.
Vần thơ Trạm-Lộ khoan thai hát 7,
Khúc nhạc Quân-Thiên phưởng phất mòng8.
Mầm mọn, mảy lông ơn chúa cả,
Báo đền nguyện hết tấm lòng trung.

Chầu yến ở núi Vạn-Tuế (Ngày ấy có tuyết xuống)

Bích-Hán loan kêu lắng bụi trần 9 ,
Ngọc-kinh nhấp-nhới họp tinh-thần 10.
Múa quanh Ngao-bối non phơ tuyết 11,
Rượu chuốc Long-nhan hội mở xuân 12.
Thấm khắp gió nhân cây Ngự-Uyển 13,
Dẫy đầy ơn Thánh nước Thiên-Tân 14.
Việt-Nam ky-lữ theo hàng ngũ 15,
Gang tấc gương soi nhật nguyệt gần.

Trở về nước

Bao năm xa nước khói mây mờ,
Mình gởi nhung yên tạm viếng nhà.
Lớp lớp lâu đài trơ bóng nhật,
Hàng hàng châu thúy cách phương xa16.
Hạc về Đông-Hải thôi đành vậy 17
Rắn cắn Nam-Môn há dám mà 18.
Hiu quạnh biết cùng ai nhắn hỏi,
Gió sông lay đóa lệ-chi già.

Tặng Thiên-sứ Trương-Hiển-Khánh đi sứ về

Gió đưa hồn mộng đến Giao-Châu,
Cách một năm tròn lại gặp nhau.
Ngựa ruổi bụi hồng theo bóng ác19,
Nhạn tung chiếc ảnh liệng mây mù.
Giã từ Ngũ-Lĩnh, đường xa thẳm,
Ứng đối tứ phương, thi thuộc làu 20.
Nghe nói triều-đình dùng văn-sĩ,
Thượng-thư chí-khí ngất trời thu.

Trần-Thánh-Vương (tam thế) văn điếu Trần-Trọng-Huy, tôi nhà Tống
(Nhà Tống mất, Trần-Trọng-Huy lánh qua An-nam rồi tạ thế).


Than khóc Giang-Nam lão cự-khanh 21
Gió xuân gạt lệ xót xa tình.
Bỗng dưng con tạo ghi năm tháng,
Chẳng quản người ta có tử sinh.
Mây trắng muôn trùng che cố-quốc,
Đất vàng một nấm lấp phương danh.
Chống trời lực lượng theo giòng nước,
Giòng nước trôi xuôi cứ thái-bình.

Trần-Nhân-Vương (tứ thế), Trúc-Lâm Đại-Sĩ biếu Thiên-sứ Trương-Hiển-Khánh bánh xuân

Thôi múa cành dâu 22, thử áo xuân,
Ngày nay hàn-thực 23 lại đương tuần
Mâm sơn hồng ngọc, bánh xuân-thể,
Tục cũ An-nam cứ mỗi lần.

Thơ tiễn chân Thiên-sứ Lý-Trọng-Tân và Tiêu-Phương-Nhai

Chén đưa vân-dịch 24 nức hương bay ,
Gió mát khôn ngăn khách trở giày.
Chẳng biết hai ngôi sao sứ-giả,
Trời nam còn chói mấy hôm nay?
Tiễn Thiên-sứ Ma-Hiệp và Kiều-Nguyên-Lãng
Trời Việt hai ngôi sao sứ-giả,
Hào-quang thai-phủ rọi ba vòng.
Ơn trên tình nặng bao hân cảm,
Nước mọn lễ sơ những thẹn thùng.
Lam-chướng xông pha người mạnh khỏe,
Gió xuân giong ruổi ngựa thung dung,
Chiếu ban Trung-Thống 25 lời ôn hậu,
Lo nước bâng-khuâng khỏi bận lòng.

Kiều-Nguyên-Lãng họa vần

Ngũ-Lĩnh mây mù khách ruổi giong,
Mai xuân mới điểm một vài bông.
Lòng nhân thiên-tử không riêng biệt,
Chí cả trượng-phu những thẹn thùng.
Giục ngựa mấy phen xông gió tuyết,
Ngừng cương tạm chút ngắm non sông.
Ngày mai khói nước sông Lô-Thủy,
Chén rượu đào tươi tả nỗi lòng.

Trần-Anh-Vương (ngũ thế) đưa thiên-sứ An-Lỗ-Oai và Lý-Cảnh-Sơn

Rực rỡ hào quang rọi hải nhai,
Sụt sùi gạt lệ thấy rồng bay 26.
Đã đành xứ nóng đồn danh khắp,
Dám giận đầu xuân rọi bóng chầy.
Nhũ-Lĩnh non cao người chữa vượt,
Tam-tương sông rộng nhạn về ngay.
Thái-bình cảnh-tượng phiền tâu lại,
Hớn hở mừng vui nở mặt mày.

Bốn bài thơ của Trần-Thái-Hư-Tử 27 (Lục thế)
Bài I: Tặng Thiên-sứ Sát-Chỉ Ngõa, Văn-Tử-Phương


Chí-trị kỷ nguyên mới 28,
Chiếu ban đến hải-tân.
Tâm thành nghiêng quỳ hoắc,
Ốm gượng nghe ty luân 29.
Lam-chướng tan đêm tối,
Cây cỏ đượm màu xuân.
Đền ngọc về tâu lại,
Chớ bỏ Việt-Nam dân.

Bài II: Tạ Thiên-Sứ Mã-Hợp-Mưu và Dương-Đình-Trấn

Vó câu muôn dặm vượt non sông,
Ngọc-tiết lung lay khí lạnh lùng.
Bỗng thấy mười hàng tuyên chiếu phụng,
Cũng như gang tấc đối mày rồng.
Thời bình, Hán đổi kỷ-nguyên mới,
Đức rộng, Thuấn ban tuế-lịch chung.
Lại được Tam-công dời bước đến,
Càng thêm xuân-sắc nhuận tư-dung.

Bài III: Thơ đưa trình Thiên-sứ (nguyên tác Hán-văn dùng nguyên vận bài trên)

Chín vạc vững bền tợ Thái-Sơn 30,
Mưa hòa gió thuận khói mù tan.
Khắp trời ngọc lụa chầu Nghiêu, Thuấn,
Trăm họ đàn ca học Khổng, Nhan.
Đồng trụ chẳng cần phiền Mã-Viện,
Bồ-Tiên 31 ai lại ngợi Lưu-Khoan 32.
Thánh ân lộng lẫy mây lành phủ,
Mát mẽ làm mưa rưới thế-gian.

Bài IV: Thơ tiễn Thiên-sứ Sát-Chi-Ngõa và Triệu-Tử-Kỳ.

Ngựa trạm bon bon lướt gió mù,
Lập lòe sao sứ rọi biên-khu.
Chí trai bốn biển ra ăn nói,
Lòng chúa muôn phương vốn ái-ưu.
Lời ngọc phẩm để sông núi Việt,
Tiếng tơ nhuần thấm móc mưa
Chu.
Ngày mai cách trở, mây nam bắc,
Khuyên cạn hôm nay rượu một bầu.

Lão Quốc-thúc Chiêu-Minh-Vương, Lạc-Đạo Tiên-Sinh 33 (2 bài)
Bài I: Tặng Thiên-sứ bọn Sài-Trang-Khanh và Lý-Chấn.


Một phong phụng-chiếu xuống Thiên-đình,
Muôn dặm hoàng-hoa ruổi sứ-trình.
Khuyết bắc áo xiêm giành tiễn biệt,
Cõi nam cây cỏ thảy nghe danh.
Khen chê oai phúc vua theo miệng,
Khinh trọng an nguy nước hệ mình.
Nhắn gửi bốn ông lòng bác ái,
Khéo vì bảo bọc Việt thương-sinh.

Bài II: Đưa Sài-Trang-Khanh

Bàng hoàng tiễn khách lúc đăng đồ,
Vó ngựa lăm xăm chỉ đế-đô.
Nam bắc lá tim cờ trổ ngọn,
Chủ tân mùi đạo rượu tràn hồ.
Chia bâu những tiếc khi cười nói,
Đối ngọa khôn quên lúc xướng thù.
Chưa biết ngày nào cho gặp mặt,
Ân cần han hỏi bắt tay nhau.

Nội-phụ được phong tước Phụ-Nghĩa-Công Trần-Túy-Sơn (2 bài) 34

Bài I


Lầu cao trăm thước ngất từng không,
Ốm gượng trèo lên thử ngắm trông.
Yên-tái xa vơi mù tít mắt,
Động-đình lai láng thảnh thơi lòng.
Quạ chìm cửa động rừng u ám,
Rồng đánh lòng sông khí lạnh lùng.
Biết tỏ cùng ai tình lữ-thứ
Cỏ lau man mác nước mênh mông.

Bài II: Vào kinh chầu, về đến Loan-Thành gặp tuyết xuống.

Gió táp sương ngưng lạnh buốt gan,
Trước thềm gang tấc đối long-nhan.
Một lời nhường nước đồn danh tiếng,
Muôn dặm chầu trời được vẻ vang.
Đất ở biển nam vưng chức giữ,
Sao chầu ngôi bắc trọn niềm đau.
Vó câu hăng hái về quê cũ,
Thăm thẳm trời đông ngắm Túy-San.

Nội-phụ An-Vũ-Sứ Lại-Ích-Quy ngày Nguyên-Đán triều hội.

Rọi khắp trời nam bóng thái-dương,
Dịch-đình gốc liễu ngựa dừng cương.
Ba lần, áo mão hô muôn tuổi 35,
Một dấu xa thư hệt bốn phương 36.
Hương nhả túy-vân hơi thấm nhuận,
Rượu nghiêng kim-hải sáo du-dương.
Bầy tôi múa nhảy, trời gang tấc,
Mưa móc ơn nhuần chúa đoái thương.

Họa bài thơ vịnh Đông-sơn Phiêu-Nhiên-Lâu của Tham-Nghị Hứa-Công

Trước đình thu-hứng bóng trăng mờ,
Sắc núi đầy lầu hỏi vận thơ
Mình tợ hoa sen ra nước chậm,
Lòng như tơ liễu sớm bùn dơ.
Quyển Kinh đã kém vui người ẩn,
Bầu rượu nên cùng hẹn kẻ ưa.
Khắp cảnh Lang-Hồ nương cửa ngắm,
Bụi trần phơi phới chẳng lòng mơ.

Lê-Tắc (15 bài)

Nội-phụ
(Năm Giáp-Thân niên-hiệu Chí-Nguyên (1284), quan-quân (quân nhà Nguyên) vào biên-cảnh, Thế-Tử khiến con người anh, Chương-Hiến-Hầu (Trần-Kiện) đem bọn Tắc ra chống cự, sức yếu hèn đầu hàng).

Mười trượng lâu-thuyền vào vịnh Việt,
Tướng quân buộc lụa bên thành hàng 37
Ngày nay nhất-thống triều Trung-Quốc,
Sông ấy xin thề, tôi tiểu-bang 38,
Từ thuở cánh lông vào phụ thuộc,
Dẫu rằng vảy vụn cũng vinh quang.
Ngày xưa trăm tuổi Tần Đà lão,
Sao mãi thi thư trệ một phương 39.

Triều hội

Muôn nước y quan vẻ sáng ngời,
Vàng thêu tay áo quyện hương trời.
Ngày lành Hoàng-Đạo kiền-khôn mở,
Điềm tốt hồng-vân nhật nguyệt soi.
Trường thọ tùng xuân mừng tuổi chúa,
Hướng dương quì hoắc giữ lòng tôi.
Hôm nay dõi gót Phong-nhân chúc,
Đức sánh Đường Nghiêu trị nối đời 40.

Mừng chiếu chỉ nhà vua

Tiếng gà giục giã sáng linh lung 41,
Gang tấc lăm xăm tới điện rồng,
Bèn khiến lời Nghiêu khắp thiên-hạ 42,
Mới hay chiếu Hán cảm Sơn-Đông 43.
Âu vàng phó mặc tay anh tuấn 44,
Đuốc ngọc đều nhờ bực tướng-công 45.
Gặp lúc thái-bình người rảnh việc,
Làng làng thơm nức lúa đơm bông.

Chầu ăn yến (năm đầu Hoàng-Khánh) (1312) 46

Thềm vàng nghi-trượng giục ban mai 47,
Bóng ác bừng lên quạt báu khai48.
Trời đất sấm vang ba bận chúc,
Móc mưa xuân dội chín ly đầy.
Rồng vàng hiệu Hán điềm ghi mới49
Trĩ trắng sân chầu lễ cống bày.
Từ ấy phương nam càng cảm đức,
Trụ đồng chất ngất chẳng cần xây.

Đô thành

Tỏ rõ trời mai bóng ráng xa,
Sắm sanh ruổi ngựa dạo Kinh-hoa.
Ba nghìn cung cấm trong mây hiện,
Trăm vạn lâu đài dước móc sa.
Hết lạnh trước cung hoa chớm nở,
Mừng xuân trên liễu quạ kêu òa.
Thái-bình khí-tượng nay nhường ấy,
Mới biết bằng trời phúc chúa ta.

Ngày Trùng Cửu nhớ Chương-Hiến-Hầu

Lâu không lên núi, chẳng ngâm nga,
Trùng cửu hôm nay lại viếng hoa.
Trên ngựa cửa tây còn chạnh nhớ 50,
Chiếc ngao tay trái lửng khuây khoa 51.
Tóc thay hai mái ngày thêm bạc,
Rượu uống vài chung kẻo nữa già.
Cái bướm con ong còn biết thú,
Trăng thanh gió mát nỡ hoài qua.

Tặng Thượng-thư Sát-Lý-Ngõa đi sứ An-Nam về.

Hoa mai đường an ổn,
Thượng-thư về bắc phương.
Non sông muôn dặm khách,
Thôn xóm hai bên đường.
Nam-Việt thông chàng Lục,
Ngọc-quan vượt gã Trương.
Hoàng-Hoa vốn thạo việc,
Mừng lại thấy quân-vương.
 
Tặng Lang-Trung Triệu-Tử-Kỳ
 
Hạ quốc chầu Thần-Cực52,
Giao-Châu ngời sứ-tinh.
Hoa mai nam bắc nở,
Cành trúc vẫn dài xanh.
Tục lạ thơ khôn tả,
Thôn hoang rượu mặc tình.
Triệu-Công-Tử phơi phới 53,
Chẳng thẹn mạng triều đình.
 
Thơ tiễn Thị-Lang Trí-Tử-Nguyên đi sứ An-Nam

Phía nam Châu Quế tiếp Châu Giao,
Lá liễu tàu cau rợp dịch-lầu 54.
Sứ-giả cầm thư ra tuyệt-vực 55,
Thị-Lang ruổi ngựa ngắm thanh-thu 56.
Rồng vàng năm mới kỷ-nguyên Hán 57
Trĩ trắng người xa lễ cống Châu.
Khai hóa văn-thân làm chương-phủ 58,
Bệ rồng Lục-giả trở về tâu 59.
 
Tiễn Phó-Dữ-Lệ tự là Văn-Sử, phụ-tá thiên-sứ qua An-nam

Thượng-thư Văn-sử sẵn chân-tài,
Ruổi ngựa theo người sứ cõi ngoài.
Đài ngọc Triệu-vương thơ hạc xuống,
Biển xanh thiên-tử chiếu rồng bay.
Các khe măng trúc so le động,
Năm núi hoa mai sắp sửa khai.
Bách-Việt gió mây dầu có khác,
Ngâm đề há thiếu vận thơ hay.
 
Ngày mồng 3 tháng 7, chúc thọ An-Nam quốc-vương
 
Trời thu sao thọ rọi ngân-hà,
Bao thuở ưu-đàm-bát nở hoa 60.
Ơn nặng, cánh bằng dời bắc-hải 61,
Đơn thành, gà chó ở nam-gia 62.
Sổ trường sinh tám nghìn thu lẻ,
Nhà Thiện-lạc tháng bảy mồng ba 63.
Trân-trọng môn-đồ đầu bạc trắng 64,
Say xuân tạm mượn chén lưu-hà.
 
Chiều hôm chơi hồ Lang-Trung, làm thơ theo vần của Tải-Đạo

Quanh rào thưa thớt bờ lau lách,
Lấp lánh trên hồ bóng thái-dương.
Người đứng gần chim trời sắp tối,
Hoa cười bên liễu nước dường gương.
Việc đời phiền-phúc ghê đôi mắt,
Lòng khách bồi-hồi vịnh một chương.
Mừng gặp Văn-Ông vui thưởng thức65,
Lời quê bia tạc dựng bên đường.
 
Tặng Phó-Dữ-Lệ đi sứ An-Nam về

Núi hú đười-ươi, trúc gọi quyên,
An-nam sứ-giả xuống long-thuyền.
Chiếu ban Diên-Chỉ vui lòng đón 66,
Thơ đến Kê-Lâm dội tiếng truyền 67.
Tiết ngọc giữ gìn thêm vũ-lộ,
Tuổi xanh qua lại mỗi phong yên.
Đầu sông mái tóc phơ phơ trắng,
Lục-Giả còn ghi buổi sứ biên.
 
Vịnh cây bá của vua Đại-Võ ở núi Đại-Biệt
 
Trải bấy xuân thu ý hững hờ,
Người truyền Vũ-Bá tự nghìn xưa.
Thần-công từ thuở Ân,
Chu trước,
Nguyên-khí một cành Giang, Hán trơ.
Lách tách đồng-long trời muốn tối 68,
Thâm trầm mộc-hổ tuyết sa mờ 69
Lấm bùn truyện cũ toan dò hỏi 70,
Cái quạ bay đâu vắng miễu thờ.

Vãn An-nam quốc-vương 71

Ngày nào khách-tọa nghe đàm đạo,
Nay trước linh-sàng đốt nến thờ.
Nhìn họa-dung xưa hồn phảng-phất,
Đọc thơ-cáo cũ lụy chan hòa.
Nấm mồ Nam-quốc hầu xanh cỏ,
Lối cũ Tây-Môn vẫn trắng hoa 72
Bao ná chiêu hồn ca khúc Việt,
Tro tiền gió thổi, cỏ cây mờ.
 
Tiến-phụng-sứ An-nam đề trạm Quế-Lâm (5 bài)
 
Bài I

Đình liễu lôi thôi vắn lại dài,
Giang-thành phơi phới ngọn sinh bay.
Không người quen thuộc khách nhìn khách,
Biết tỏ tâm tình ai với ai.
Nghìn dặm hồn quê lòng điệp vướng,
Một thuyền tứ khách, tiếng quyên gầy.
Sáng mai chẳng biết trên đường sứ,
Còn phải yên ba độ mấy ngày?

Bài II

Giang-thành ngày hạ nắng oi ghê,
Khổ nỗi hoàng-hoa gấp hạn kỳ.
Muôn dặm vó câu reo bước tiến,
Năm canh cánh điệp vướng hồn quê.
Nỗi niềm cảm-khái, ta riêng biết,
Muốn hỏi cùng thông, trời chẳng nghe
Bình-nhật túi dùi không tính kế 73,
Hổ người năm thước thấp le the.

Bài III

Dặm trường đêm vắng gió hiu hiu,
Lay động lòng thu mấy lá tiêu.
Bóng ngựa một roi bay vút gió,
Hoa mai năm cũ nở chiêm bao.
Nhìn trăng lữ-thứ quen quen mặt,
Vắng nhạn thiên-thai thủi thủi sầu.
Bay nhẩy bình-sinh chưa toại chí,
Ngồi buồn gõ nhịp hát nghêu ngao.

Bài IV

Mây un rừng quế mấy ngày thâu,
Hóng mát, nơi nào chẳng cởi bâu.
Ve gió reo vang ngao ngán khách,
Cúc vàng chưa nở ước mơ thu.
Kiền-khôn mù tít say vương-sứ,
Sơn-thủy ngâm nga hỏi bạn bầu.
Bỗng trận mưa đêm đâu đổ xuống,
Đánh tan muôn dặm mối hương sầu.

Bài V

Muôn dặm quan-hà trải bước chân,
Ngừng xe quán khách luống tần ngần.
An nguy nào tớ đâu hay biết,
Nói lặng tùy người nghĩ tủi thân.
Uống cạn sầu quê ve rượu thánh,
Ngâm tiêu hận khách tập thơ thần.
Mảy may thẹn chửa đền ơn nước,
Roi ngựa hai lần thét gió xuân.
 
Bài thơ của Doãn-An-Phủ lúc đi cống nhà Nguyên, từ biệt người em.
 
Về nam đi bắc tách hai phương,
Hai bóng mờ mờ ngựa rẽ cương.
Hồng nhạn tuyệt vời mây cửa ải 74,
Tích-linh lạnh lẽo gió bên tường75.
Kề giường trò chuyện đêm mưa gió,
Mượn rượu khuây khoa nỗi nhớ thương.
Ta giữ tiết-mao76, người quạt gối77,
Hiếu trung khôn vẹn cả đôi đường.
 
Sứ An-nam vâng mệnh quan tỉnh Hồ-Quảng làm thơ.
 
Gió thổi ào ào tung cát bụi,
Cao thâm lộng lẫy chốn quan nha.
Trăm năm mãng ngắm non sông rộng,
Muôn dặm bao nài đường sá xa.
Ve chén cỗ bàn nồng bạch tửu,
Áo xiêm lễ nhạc thẹn hoàng-hoa.
Người đời tán tụ đường nam bắc,
Thạnh trị đồng vui cảnh thái-hoà.
 
Quan Đại-phu Nguyễn-Cố-Phu vâng mệnh quan tỉnh làm thơ trong tiệc rượu
 
Nước xa mến phục đức tuần-tuyền 78,
Ấm áp ngày xuân cuộc yến diên.
Thánh-triều thiên-tử rất minh thánh,
Phụ-bật tay chân đều lương hiền.
Khoan hồng rộng lớn như trời đất,
Bao dung kết nạp đức vô biên.
Mọn hèn may mắn gặp đời thịnh,
Thành tâm giữ chức lại triều thiên.
Ve vàng đầy rượu ơn nồng hậu,
Tắm gội say sưa theo lệnh trên,
Tỉnh-đường gang tấc vâng ý tốt,
Đầy nhà vui vẻ cùng mời khuyên.
Thái-cực dựng ngôi chuyển trời đất,
Tám phương bốn biển theo hóa quyền.
Chẳng những chúng ta chịu ân huệ,
Dần xa ức triệu mãi vui yên.
 
Bài thơ của sứ An-nam từ tạ Bạn-tống-quan.
 
Bịn rịn chia phôi những ngậm ngùi.
Cây xuân mây tối hạn chia đôi79,
Xưa không sứ-mệnh người khôn gặp,
Nay biết Kinh-Châu trời khéo xui80.
Đối-ẩm giường Từ 81 dù chữa thỏa,
Bàn văn thuyền Lý 82 đã chung ngồi.
Sau nầy muốn biết tình thương nhớ,
Gió mát trăng trong chính những hồi.

Thơ nhớ bạn của Lý Bạch có câu: "Lạc nguyệt chiêu ốc lương", nghĩa là nằm thấy bóng trăng rọi vào rường nhà, bâng khuâng nhớ bạn.
 
Anh em bạn xa nhau, lúc gặp lại, nghiêng lọng bên đường mà nói chuyện.
 
Vi Tử là anh của vua Trụ nhà Ân. Vua Trụ hoang dâm, Vi Tử can ngăn không được, bèn bỏ đi. Sau khi Võ Vương diệt vua Trụ, phong Vi Tử ở nước Tống để nối dòng dõi nhà Ân.
 
Văn-Công là công tử nhà Tấn, bỏ trốn trong lúc nước có nạn, sau về phục quốc.
 
Thiên Học Ký trong Kinh Lễ có câu: "Lương dã chi tử học vi cầu, lương cung chi tử học vi cơ", nghĩa là con người thợ đúc khéo, thấy cha thổi chảy các loại kim để hàn đồ, thì bắt chước sưu tầm những miếng da thú nhỏ để làm áo cừu, con người thợ làm cung khéo thấy cha uốn cây điều hòa để làm cung thì bắt chước uốn cây làm thúng. Chữ cơ cầu dùng chỉ nối nghiệp cũ của ông cha.

"Xa đồng quỹ, thư đồng văn" nghĩa là xe đồng dấu, sách đồng chữ, ý nói hoàn hải giao thông rộng mở.
 
Trạm-Lộ: bài thơ trong Kinh Thi, Thiên Tử dùng để yến ẩm chư hầu:
 
Quân-Thiên: khúc nhạc trên thiên đình.
Bích-Hán: sông Ngân Hán ở giữa trời xanh.
Tinh thần: các ngôi sao.
Ngao bối: (lưng con Ngao) cũng như Ngao Sơn là nơi tiên ở.
Long nhan: mặt rồng tức nhà vua.
Vườn của vua, cũng như Thượng Uyển.
Thiên Tân cũng như Thiên Hà, là sông Ngân-Hà trên trời.
Ky lữ là người khách ký ngụ ở nước ngoài.
 
Hai câu 3 và 4, ý nói lúc về thấy lầu đài vắng vẻ và anh em ly tán.

Đinh Lịnh Uy ở Liêu Đông, theo học tiên, sau hóa hạc về đứng kêu trên cột hoa biểu.
Ở Nam Môn nước Trịnh, có con rắn ở ngoài cắn với con rắn ở trong. Rắn trong thành là rắn yêu, bị cắn chết, ấy là điềm Lệ Công sẽ được về nước.

Về bóng ác nghĩa là về dưới mặt trời, tức là về Kinh Đô.

Luận Ngữ: "Tụng thi tam bách, thọ chi dĩ chánh bất đạt, sứ u tứ phương, bất năng chuyên đối", nghĩa là học Kinh Thi 300 thiên, đến khi làm Chánh Sự lại không thông suốt, đi sứ bốn phương thì không đủ tài một mình ứng đối.
Người có quan chức lớn.

Nguyên Hán văn là "Đồ-Chi", tên một bài hát hay một điệu múa xưa ở nước Tàu.
Hàn Thực là ngày 3 tháng 3 âm-lịch vì ngày ấy người ta không đốt lửa để kỷ niệm Giới-Tử-Thôi, người nước Tần đời Xuân-Thu, bị cháy trong núi.
 
Vân dịch là một thứ rượu tiên.
Niên hiệu vua Thế-Tổ nhà Nguyên.
Lúc nầy Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông mới chết.
Biệt hiệu vua Trần Minh Tông.
 
Niên hiệu của Nguyên Anh Tông (1321-1325).

Lời chiếu thư êm ái của thiên tử như tiếng tơ. Sách Lễ Ký có câu: "Vương ngôn như ty, kỳ xuất như luân".

Vua Hạ Vũ đúc chín cái đỉnh để tượng trưng chín châu. Từ đó về sau, chín đỉnh là một bửu vật truyền quốc.

Bồ tiên là roi lau.

Lưu Khoan người đời Hán làm Nam Dương Thái Thú, tính nhân từ, dân có lỗi, chỉ đánh bằng roi lau.

Tức Trần Quang Khải.

Tức Trần Tú Viên.

Trăm quan chúc thọ đến ba lần.

Bốn bể xa đồng dấu, sách đồng văn, ý nói nhất thống.
 
Thửa xưa những người bại trận, lấy lụa trắng buộc cổ đứng xin đầu hàng.

"Cũng như sông ấy" là một câu nói dùng để thề lòng trung thành.

Hai câu kết ý nói Triệu-Đà ngày xưa sao riêng biệt sơn hà, không chịu thần phục nhà Hán. Ám chỉ sao vua nhà Trần không chịu vào chầu thiên tử nhà Nguyên để tránh họa binh đao.

Phong nhân là một chức quan coi giữ bờ cõi. Xưa vua Đường Nghiêu đi tuần thú đến Thái Hoa, quan Phong nhân ở đó chúc vua được đa nam, đa phú, và đa thọ.

Sáng tờ mờ.

Lời nói của vua Nghêu.

Lúc tờ chiếu của nhà Hán ban xuống, dân Sơn Đông đều cảm động.

Nghiệp nước vững như âu vàng.

Đuốc ngọc sáng tượng trưng thái bình, là nhờ có vị tể tướng giúp công (Điều hòa đỉnh nãi (cái vạc lớn), là công việc của tể tướng giúp nước bình trị, làm cho khí âm khí dương được điều hòa).

Niên hiệu Nguyên Nhân Tông.

Thềm vàng là thềm điện vua, nghi trượng là đồ trần thiết trang nghiêm.

Mặt trời mọc, vua ngự ra đền Đồng-Chương.

Hán Tuyên đế, nhân có rồng vàng hiện ra, đặt niên hiệu Hoàng Long để ghi điềm tốt.

Câu nầy tác giả nói nhớ lúc trên ngựa bồng thây Chương Hiến Hầu chạy ở cửa tây.

Tất Trác đời nhà Tấn, chỉ mơ ước được suốt đời lúc nào cũng tay mặt nâng ly rượu, tay trái cầm ngao cua. Câu thơ nầy nói: nhớ Chương Hiến Hầu đến đỗi đương cầm ngao uống rượu cũng quên lững.

Thần cực tức là Bắc đẩu, chỉ ngôi thiên tử.

Tức Bình Nguyên Quân, đi sứ thuết phục được vua Tần.

Lầu trạm.

Cõi xa xuôi.

Mùa thu trong sáng.

Ban kỷ nguyên mới của nhà Hán.

Chương phủ là cái mão của kẻ sĩ đời nhà Thương. Ý nói hóa tục xăm mình (văn thân) để theo văn-hóa Trung Quốc, biết đội mão mặc áo.

Nguyên Hán văn là: "Quy lai Lục Giả thuyết tiền lưu". Lưu là cái mão của thiên tử đội, nói trước mão lưu, tức là phúc tấu với thiên tử.

Ưu-đàm-bát là một loại cây không có hoa mà có trái, mùi ngon, lớn bằng nắm tay. Cũng có loại có hoa, nhưng khó trồng, trong Kinh Phật dùng thứ hoa nầy để ví những thứ ít có.

Câu nầy nói An nam quốc vương, Trần Ích Tắc, chịu ơn nặng nhà Nguyên, làm quan ở Trung Quốc.

Nói thuở xưa gà chó của tiên gia nhờ uống bã thuốc linh đơn đều được trường sinh, nay Ích Tắc luyện được thuốc linh đơn mà gà chó thì ở An nam.

Thiện-Lạc là biệt hiệu của Trần-Ích-Tắc.

Lê-Tắc tự nhận là môn đồ già của An nam quốc vương.

Văn-Ông đời Hán làm thái thú quận Thục, ưa chuộng giáo hóa, thiết lập trường học.

Chu Diên và Giao Chỉ.

Xem lời chú thích ở bài thơ của Trần Nghiễm ở trước.

Đồng long là cái đồng hồ để lường giờ.

Mộc hổ: đời xưa lấy gỗ chạm hình con hổ, trổ miệng nơi lưng để dùng trong việc bắn thi, người nào bắn trúng thì được bỏ thẻ vào đó để ghi nhớ.

Vua Đại Võ trị nước lụt, tay lấm chân bùn.

Tức Trần Ích Tắc.

Đường cửa Tây lúc bỏ nước ra đi.

Mao Toại đời Chiến Quốc tự ví mình như cái dùi, đựng trong cái túi, bình thường không ai biết, nhưng có ngày trổ tài, cũng như cái dùi trong túi thoát mũi nhọn ra. Hai câu kết ý tác giả nói, ngày thường không lo kế tiến thân, cho nên đường công danh thẹn với anh lùn Mao Toại.

Hồng nhạn ví anh em.

Tích-linh, con chim giống chim yến. Kinh-Thơ, thơ Tích-Linh khuyên anh em giúp nhau khi hoạn nạn.

Tức đi sứ.

Tức quạt nồng đắp lạnh, về nhà hầu cha mẹ.

Tuần tuyên: các quan kinh-lược đi tuần hành để tuyên bố đức ý của thiên-tử.

Trong bài thơ của Đỗ Phủ nhớ Lý Bạch có câu: "Vị bắc xuân thiên thụ, Giang Đông nhật mộ vân", ý nói Đỗ Phủ thấy cây mùa xuân ở Vị Bắc thì nhớ Lý-Bạch, cũng như Lý Bạch trông mây buổi chiều ở Giang Đông thì nhớ Đỗ Phủ.

Hàn-Triều-Tôn đời Đường làm Thứ-Sử Kinh-Châu, nhân sĩ đều muốn biết mặt, nên có câu: "Sinh bất dụng phong vạn hộ hầu, đàn nguyệt nhất thức Hàn Kinh-Châu", nghĩa là ở đời không cần được phong vạn hộ hầu, chỉ muốn được biết mặt Hàn Kinh Châu. Đời sau dùng chữ "thức Kinh Châu" để tỏ ý nói gặp được bậc hiền sĩ.

Tư-Trĩ (tên chữ là Nhụ Tử) và Trần Phồn, hai danh sĩ đời Hán, làm bạn với nhau. Trần Phồn có một cái giường thường treo lên, chờ lúc nào có Từ Trĩ đến mới hạ xuống để tiếp bạn.

Lý Ưng và Quách Thái, hai danh sĩ đời Hán, kết bạn với nhau, thường cùng đi một thuyền, đàm luận văn chương.

Hết An Nam Chí Lược Thơ của các danh-nhân An-Nam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét