Giáo Sư Nguyễn Bá Lăng

Kiến trúc xưa của Việt Nam

Giáo Sư Nguyễn  Bá Lăng
Từ trên một thế kỷ nay, Việt Nam trải qua bao cuộc đổi thay, nhưng hồn xưa dân tộc vẫn ẩn hiện đó đây trong nếp sống và cảnh sắc thân thương, thắm thiết chung quanh:
Làng thôn nổi lên giữa chốn bình điền hoặc kề bên một giòng nước thì cũng vẫn là những ốc đảo yên lành mà biết bao giòng đời, thế hệ nối nhau kế tiếp sinh trưởng và hãnh diện về nơi quê cha đất tổ của mình.

Trong làng có nhiều dòng họ. Mỗi họ có nhà thờ tổ tiên mình nhưng quanh đi quẩn lại thường cùng tơ vương huyết thống và đùm bọc lẫn nhau. Trai gái lớn lên trong khung cảnh xóm làng thương nhau trong nền nếp luân thường:

Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.

Làng là những đơn vị gia cư tụ họp trên một địa bàn ít nhiều sít sao tùy theo mật độ và dọc theo những lề đường thành xóm ngõ.

Đơn vị nào cũng có sân ở nhà chính bước ra, và có nhà phụ thuộc vườn ao hay không tuỳ theo rộng hẹp và là nhà ngói, sân gạch cây mít nếu là nhà giầu, nhà tranh vách đất nếu là nhà nghèo. Nhưng nghèo mà lòng dạ tốt thì:

Nhà tranh với tấm lòng vàng
Yêu anh em chỉ mơ màng thế thôi.

Làng xưa luôn luôn có lũy tre bao quanh, để phòng thủ cho kín đáo mà cũng để xử dụng vật liệu vào vào nhiều nhiều việc ở nông thôn. Cũng vì phòng thủ canh gác mà ở nơi đường đi vào làng phải làm cổng. Trên cổng có khi xây chòi gác. Và cổng làng thường khi trở thành hình ảnh sắc diện của làng với bóng đa cổ thụ với hồ sen trong, là chỗ dừng chân nghỉ mát thú vị.Những nơi có đường lớn đi ngang bên làng , thì nơi xóm ngõ đổ ra cũng xây cổng, cổng này nhỏ hơn cổng làng nhưng nhiều khi cũng xinh sắn, độc đáo  như chào mời khách lạ bước vào một xóm ngõ ấm cúng bên trong.

Dìa làng có dòng sông nhỏ; Muốn băng qua, các cụ xưa đã bắc mấy nhịp cầu đá xinh xinh. Cầu được đặt làm tại những nơi làm đá thường là đá xanh rồi được chở về sắp ghép những chân, những đà, những phiến đá nhẵn mặt cầu , toàn bộ bằng đá thành một cây cầu đẹp vững vàng, tiện nghi, và nếu có thêm cây bia, 1 cụm trúc hay 1 gốc bàng mọc ở bên thì dễ trở thành một cảnh nên thơ.

Nếu gần rừng sẵn gỗ thì lại là kiểu cầu "Thượng gia hạ trì" làm bằng gỗ to dài cao hơn.

Cầu có mái lợp ngói; dưới bắc sàn, giữa là lối đi, 2 bên là ghế ngồi dài  có lan can nhỏ dùng làm lưng tựa . Trưa hè thi nơi đây trên sông nước hiu hiu gió mát là chỗ nghỉ ngơi lý tưởng cho nông dân làm đồng vất vả, cũng là chỗ dừng chân thật thoải mái cho khách bộ hành. Cầu vươn cong cong trên những hàng chân cột gỗ nhưng đến gian chính giữa thì được chế tác thành trang thờ thần sông.

Y Kiến trúc to lớn nhất làng là ngôi đình.

Đình cổ với toà mái nguy nga đồ sộ vươn 4 góc trầm hùng lên nền trời xanh, mây trắng ban trưa, ráng vàng, ráng hồng lúc chiều hôm cùng những con kìm, con sô, con nguỷnh , những con giống sành gắn ghép trên những đường bờ hộp trổ thủng hoa chanh, viền cạnh nóc mái, nóc đình nhô lên thật cao nhưng mái hiên lại xoà xuống thấp để che phủ hàng cột hiên gỗ to tròn dựng trên thềm 3 cấp bậc có sấu đá dẫn lên. Đình có sàn cao cách mặt đất khoảng một bụng người để trải chiếu ngồi hội họp nên xung quanh có hàng lan can bao quanh chạy dài nối các cột hiên lại với nhau. Cột kèo đình to mập, chạm trổ công phu, chan hoà đường nét dân tộc. Rực rỡ nhất là mặt trong hay ban thờ thành hoàng ở gian chính giữa với những cửa võng, hoành phi, câu đối, hương án son vàng rực rỡ, tự khí  lư đình, lộ bộ bằng đòng, có lọng long lanh ngũ sắc. vv...

Ngày thường đình vắng vẻ u tịch, nhưng vào ngày tế thần thì cửa đình rộng mở, lễ vật đem dâng, hương hoa đầy đủ, rồi trống cái rộn ràng, bát âm hoà tấu, kèn tầu réo rắt nổi lên phụ hoà điệu Lưu thuỷ, Kim tiền rung rinh vấn vít. Nhạc ngưng để đông tây xướng: Hưng, bái vái Bình thân phục vị...

Rồi trống lại nổi, bát âm và kèn tiếp theo.

Quan viên áo thụng lam, hia mũ chỉnh tề, lên gối, xuống gối trịnh trọng lễ thần, nhất nhất theo quy cách tế tự trang nghiêm:

Lễ nghĩa tương tiên, thiên hạ đại phong tục;
Tôn ty hữu tự, hương đảng tiểu triều đình.
(Câu đối ở đình làng Dỵ Sử, H.Mỹ Hào. T. Hưng Yên )

Đất ở hai bên và trước mặt đình thường trống rộng nên cũng thường được họp chợ.

Chợ họp trong những quán tranh, quán ngói và đông nhất là ở ngoài trời dưới bóng những tàn đa hoặc tàn bàng cổ thụ.

Chợ huyện một tháng sáu phiên
Gặp cô hàng sén kết duyên châu trần.

Vùng nào cũng có chợ, nhưng kiểu chợ độc đáo nhất là chợ làng Yên Phụ ở gần thị xã Bắc Ninh. Chợ là những dẫy quán ngói bắt vần vây quanh 3 cạnh sân đình nhưng chừa nơi chính giữa đi vào là 1 gian cổng cao, tường hồi xây cấp tai tượng  và khung bảng tên đình. Ở góc 2 bên đầu dẫy đặc biệt ở đây là có làm một mái lầu với 4 góc duyên dáng gần bên những tàn đa cổ thụ tạo thành 1 cảnh sắc chợ quê rất đỗi mỹ miều, thân yêu.
Y Chùa
Chùa được thiết lập ở nơi tĩnh lặng trong làng;
Khởi sự có khi là 1 am cỏ do 1 Phật duyên nào đó, sau đó chùa được làm lớn rộng dần ra.

Chùa có thượng điện là nơi bầy nhiều tượng Phật trên những bệ thờ từ ngoài thấp,  vào trong cao dần lên. Mặt ngoài là nhà ngang  Tiền đường còn gọi là chùa Hộ vì có đắp 2 pho tượng Hộ Pháp ngồi cao lớn gần đụng mái chùa ờ 2 đầu. Ở đây cũng có 1 số bàn thờ nhỏ và rực rỡ nhất vẫn là ban thờ Tam bảo mở ra ở gian giữa với hoành phi câu đối, cửa vòng , hương án rực rỡ vàng son và kỷ bầy chuông mõ, nơi sư phụ ngồi tụng lễ. Chùa giầu có, đắp 8 pho tượng Kim cương ở vách 2 bên đầu hồi và tượng 18 La hán ở vách hành lang, 2 bên đầu dẫn xuống nhà tổ quây bọc lưng chùa.

Tăng phòng, phương trượng tiếp khách thường cùng ở nơi này. Khung cảnh êm đềm yên tĩnh nhìn ra mấy gốc cây cau xoè tầu lá, cây ngọc lan phô vòm lá  xanh dầy đốm điểm nụ hoa trắng ngà, khóm sói mộc toả hương thơm nhẹ nhàng bên tường hoa vây quanh thượng điện, và gốc đại (hoa sứ) ngả lượn thân cành bên một cây hương.

Còn gác chuông thì vươn góc mái cong lên cầu khẩn 4 phương trời:

Khói hương bén quyện mái chùa,
Tiếng chuông giải thoát vẳng khua sớm chiều.

Những vị trụ trì viên tịch thì được xây mộ tháp ở vườn chùa. Tháp thường có 3 từng, xây vuông hay bát giác bằng gạch Bát tràng  như để phô diễn lâu bền cùng thời gian.

Y Đền thờ anh hùng, danh nhân

 thường được dựng ở những địa điểm lịch sử như Hùng vương ở Lâm Thao. T. Phú thọ. An Dương vương ở Cổ Loa, Hai Bà Trưng ở Hát Giang (Sơn Tây), Trần Hưng Đạo ở Kiếp Bạc (T. Hải Dương) vv...

Kể từ thời đầu Lê Trung hưng, nhiều người có công với đất nước được thờ ở đình làng như một thành hoàng.

Đền thờ khác chùa là không có những nhà phụ quây bọc chung quanh chính điện, mà chỉ có dựng ở 2 sân trước là tả hữu vu và nhà bia ghi kể công trạng vị thần.. Ở cổng đền thường có đắp voi quỳ, ngựa đứng với yên cương thường khi nổi tròn trên mặt tường ở 2 bên, và có dựng bia hạ mã để cảnh giác kỵ mã và khách đi đường biết nơi thờ phụng tôn nghiêm.

Y Miếu thờ đặc biệt đáng kể là những văn miếu.

Miếu xưa hơn cả là văn miếu Hà Nội. Miếu lập dựng ra từ triều Lý Thánh Tôn (T.K.11). Văn miếu này được sửa chữa thay đổi nhiều lần; khu điện chính Đại Thành như ngày nay được thấy ở đây là kiến trúc làm lại thời Lê Trịnh, T.K 18, Khuê văn các thì dựng hồi đầu triều Nguyễn, T.K. 19, Văn miếu môn (cổng chính) thì xây dưới triều Đồng Khánh cuối thế kỷ 19.

Kể từ khi Nho học thịnh đạt dưới triều Lê thì văn miếu, văn từ, văn chỉ được xây dựng ở rất nhiều nơi đến cả những làng xã có người học hành đỗ đạt và đến triều Nguyễn thì từ Trung ra Bắc, vào Nam, mỗi tỉnh đều có xây văn miếu; huyện thì văn chỉ; làng xã thì văn từ.

Ảnh hưởng kiến trúc Huế được nhận thấy ở những điện Đại Thành (điện chính), ở một số văn miếu tỉnh như Sơn Tây, Hải Dương. Điện thờ chính ở những nơi này làm trùng thiềm điệp ốc (gồm 2 nhà giáp mái lại với nhau) và làm 2 tầng mái, cổ diêm là khoảng cách giữa 2 tầng mái xây gạch bít kín rồi đắp ô trang trí và góc mái cũng ít cong như cung điện Huế. Ảnh hưởng Huế tuy vậy chỉ thế thôi, ngoài ra mỗi văn miếu biểu lộ đường nét sắc thái của địa phương, rõ rệt nhất là ở cổng chính và ở lầu trống lầu khánh vv...

Việt Nam không có những công trình xây cất to lớn vĩ đại mà hầu hết chỉ là vừa tầm thước con người.      

Về vật liệu xây cất thì cũng như các dân tộc Á đông, người Việt Nam ưa dùng thảo mộc tre gỗ hơn gạch đá vì coi vật liệu này vui tươi gần gũi với đời sống con người hơn. Khác với Trung hoa ưa mầu sắc loè loẹt, trong kiến trúc Việt Nam thường để nguyên mầu gỗ mà thưởng thức những vân thớ của gỗ trò, của gỗ lim núi đá chẳng hạn và gỗ mít đã được bào soi, đánh bóng bằng lá chuối khô.

Kiến trúc dân sự Việt Nam không cao lớn, không những thế lại còn bị chi phối bởi một số sắc luật của triều đình như nhà cửa của dân chúng không được làm rộng, cao lớn, không được đắp chạm rồng vv... Vì vậy mà nghệ nhân đã dồn sự khéo tay và sáng kiến vào việc thực hiện những thành phần kiến trúc đa dạng khác nhau và những chi tiết trang trí mới lạ, chẳng hạn như rồng năm móng là dành cho nhà vua thì nhà dân chạm trúc hoá long, mai hoá long, hoạ tiết mới lạ hơn.

Kiến trúc Việt Nam luôn luôn đi sát với thiên nhiên. Đình chùa điện miếu luôn luôn được dựng kế bên vòm bóng xum xuê của cổ thụ: đa, đề, thông, muỗm (soài). Những cây này được trồng ngay khi khởi sự xây cất công trình. Nhà dân thì có cây trồng bên cạnh hoặc có vườn .

Ngày xưa khi dự tính thực hiện một kiến trúc  gì, người ta đều phải để ý đến khoa phong thuỷ về thế đất, về hướng nhà sao cho đất lành, nước thuận, khí hoà thì sẽ được an ổn, tốt lành, thịnh vượng.

Về hình khối kiến trúc thì Việt Nam cũng như các nước Á đông có đặc điểm là ưa đường nét cong duyên dáng mà được thấy rõ nhất là cái mái cong. Tuy nhiên cái nét mái cong không phải là ở đâu cũng giống nhau. Mái ở miền bắc Trung hoa, Đại Hàn, Nhật bản chỉ hớt cong nhè nhẹ ở nơi góc mái. Từ miền sông Dương tử trở xuống miền Hoa Nam thì góc cong vút lên đến nhọn hoắt và dốc mái cũng võng xuống, ở miền Phúc kiến thì đường sống nóc võng xuống ở giữa để bật lên ở 2 đầu nóc. Mái cong Trung hoa trông cầu kỳ nhưng trông vẫn mỏng nhẹ.

Mái Việt Nam làm dốc thẳng, nóc hơi vươn lên ở 2 đầu và 4 góc cong lên một cách trầm hùng do hai thanh tầu đao gỗ gặp nhau ghép lại rồi những lớp ngói chồng chất lên tạo thành góc đao. Góc đao đình trông vững mạnh, cao dầy là tiêu biểu thành công nhất cho loại góc mái cong này.

Mái cong Á đông nói chung và Việt Nam nói riêng đã làm cho kiến trúc không khác biệt với cây cỏ, phong cảnh thiên nhiên mà còn hoà quyện, bổ túc cho cảnh sắc chung quanh.

Nhà dân chúng không làm mái cong, mà nhà tranh, nhà lá làm 4 mái, đường khối không bao giờ thẳng băng cứng nhắc, còn nhà gạch xây tường hồi bít đốc, nhưng trang trí thêm bằng những đấu cái, đấu con, cấp tai tượng, gờ chỉ, cửa thông gió, mái hắt vươn cong ở đầu hồi, cửa sổ đắp hoa thị hay chữ thọ ở gian bên, cột trụ nanh, con cá miệng máng ở đầu hiên là những hình ảnh quen thuộc mật thiết với tầu cau, giàn trầu, giàn hoa lý, cây đu đủ, cây ổi, cây chanh, cây khế, cây bưởi, cây mít và cả với bụi tre trồng làm hàng rào.

Những khung cảnh quen thuộc của Việt nam xưa ấy từ giữa thế kỷ 19 thì bắt đầu thay đổi do ảnh hưởng của Tây phương. Trước hết là việc xây cất những kiến trúc công sở bằng gạch và có tầng gác ở các thành phố. Những kiến trúc đó đã ảnh hưởng đến việc xây cất của dân bản xứ như bắt đầu xây cất bằng gạch nhiều hơn: xây mặt hàng hiên bằng gạch có vành cuốn, cột đắp, tường hoa chắn mái trang trí hoa lá, gờ chỉ ít nhiều theo kiểu Tây phương. Dần dần ảnh hưởng Tây phương lan đến cả miền thôn giã trong việc xây cất hoàn toàn bằng gạch, bằng xi măng cho đến cả đền chùa cũng bị ảnh hưởng. Đây cũng là định luật cải biến, tiến hoá tự nhiên trong nếp sống của loài người...và sự thu nạp thêm văn hoá ngoại lai cũng có điều tốt là làm đổi mới phong phú văn hoá của xứ mình.Nhưng điều đáng buồn là khi quá ham mới mà quên cũ, coi rẻ những gì mà người xưa để lại, kể cả những gì là tinh hoa, cao đẹp cũng không cần biết đến mà còn phá bỏ đi. Riêng về lãnh vực kiến trúc, những di sản cổ truyền sở dĩ đến nay không còn được bao nhiêu vì những lý do sau đây:

Lão hoại : kiến trúc Việt Nam phần lớn là làm bằng thảo mộc nên dù là những danh mộc: tứ thiết như đinh, lim, sến, táu cũng ít khi tồn tại được tới 8, 9 trăm năm ở một xứ nhiệt đới và ẩm thấp như nước ta. Mà dù có bảo vệ, trùng tu, thì thường người ta  cũng ít có ý thức tôn trọng đường nét nguyên thủy. Nhiều thắng tích chỉ còn lại cái tên, chứ kiến trúc đã hoàn toàn đổi khác, mặc dù gọi là trùng tu hay tái thiết.

Chiến tranh: Việt Nam là một trong những xứ chịu nhiều chiến tranh. Mà đã chiến tranh là binh hoả tàn phá; như quân Nguyên Mông đã đốt phá sạch cung điện của vua Trần, Chế Bồng Nga thì mấy lần vượt biển ra cướp phá Thăng Long, Trịnh Mạc quần thảo nhau dằm nát từ An trường ra Đông Đô vv...

Chủ trương huỷ diệt:   Nhà Minh đô hộ Đại Việt, chủ trương Trung Hoa hóa bằng cách xoá hủy văn hoá Đại Việt: Thu đốt sách vở và các tài liệu văn bút, hủy hoại bi ký, đập phá đền, đình, chùa, tháp. Vì thế sau cuộc đô hộ của nhà Minh 20 năm, di sản văn hoá và kiến trúc thời Lý Trần và trước đó chẳng còn lại được bao nhiêu

Đố kỵ triều đại và cá nhân

Người Việt xưa hầu như không có óc quí giá, bảo vệ cổ tích và ý thức được tài sản chung của dân tộc nên mới nẩy ra nhiều trường hợp là một triều đại mới nổi lên là phá huỷ những công trình của triều đại trước như Trịnh xoá Mạc, Lê Chiêu Thống đốt phủ chúa Trịnh và  những gì có liên quan,  Gia Long phá huỷ cung điện  Phú Xuân mà Nguyễn Huệ đã ở và kể cả gần đây như trong cuộc tiêu thổ kháng chiến chống Pháp.

Tác giả vì cái duyên tiềm ẩn từ buổi thiếu thời, sống trong khung cảnh của 1 vùng quê có phố chợ, có những ngôi đình thời Lê, có chùa cổ, có đền thờ uy linh, có nghè miếu lập trên gò đống um tùm, cây cao bóng cả soi bóng xuống mặt nước kế bên. Đến tuổi thanh niên thì ngày nghỉ rảnh rỗi, đạp xe đi thăm danh lam chung quanh Hà-Nội, nhất là vùng Bắc Ninh và vùng Sơn Tây. Khi vào học kiến trúc thì sở thích là tìm hiểu, nghiên cứu kiến trúc Việt Nam và Á đông. Tới lúc ra đời làm việc thì cũng hoạt động trong ngành bảo tồn cổ tích và nghiên cứu kiến trúc và mỹ thuật cổ truyền trong lãnh vực này. Trong thời gian này thực hiện được việc trùng tu đền Lý Quốc sư, trấn Ba Đình, cầu Thê Húc (đền Ngọc Sơn), đền Voi Phục, đền Tú Uyên, chùa Một Cột ở Hà Nội. Sau đó, từ năm 1955, làm việc tại Viện Khảo cổ (Sài Gòn), phụ trách việc trùng tu các cổ tích Huế, bảo tồn trùng tu cổ tích, nghiên cứu kiến trúc và mỹ thuật cổ truyền Việt Nam và Á đông vv...

Ngoài ra cũng thực hiện một số kiến trúc mới nhưng tiếp tục phong dạng của kiến trúc Chàm và Việt cổ truyền như chùa Vĩnh Nghiêm ở Sài Gòn, miếu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, Cổng lên tháp  Chàm Po Kluang Garai ở Phan Rang.

Rồi thời sự đưa đẩy, tác giả phải rời nơi chôn nhau cắt rốn ra đi, thì càng đi xa lòng càng da diết nhớ quê hương, nên khao khát tìm kiếm những hình ảnh nhắc lại khung cảnh cũ của quê hương. Rồi hình nào in chụp không rõ thì vẽ lại. Tác giả cũng may mắn còn giữ lại được một số hình mà tác giả đã vẽ tại chỗ hồi trước năm 1942-1943. Tranh lâu ngày nhầu nát, tác giả phải tu sửa hoặc vẽ lại một số hình.

Ngoài ra tác giả cũng vẽ lại một số đình, chuà, những kiền trúc đã in đậm vào cảm quan trí nhớ của tác giả.

Nay nhân lúc nhàn hưu và thời cơ  duyên thuận, tác giả gom góp lại những hình vẽ, viết những lời gìới thiệu để đem in phổ biến, những mong đóng góp được phần nào cho việc lưu truyền hình ảnh và cảnh sắc cổ truyền đất nước Việt Nam.

Nguyễn  Bá Lăng
Ngày sinh nhật năm 78 tuổi
Đầu thu năm Mậu Dần.
Paris 08/1998
 

L'architecture vietnamienne à travers les dessins
I

l y a beaucoup de changements au Viêt-nam depuis un siècle et demi mais l'âme du peuple persiste toujours dans la vie traditionnelle et dans le cadre familial du pays.

Les villages, qu'ils surgissent au milieu des rizières ou à côté des cours d'eau, restent toujours des îlots de paix où les générations continuent leur vie en se glorifiant du berceau de leurs ancêtres.

Un village est composé de plusieurs familles. Chaque famille possède sa propre maison de culte des ancêtres mais toutes les familles sont plus ou moins consanguines et elles s'entraident. Les jeunes gens, vivant dans un cadre familial, s'aiment dans les valeurs morales.

Le village est la réunion de plusieurs domiciles qui se répartissent en hameaux sur un terrain plus ou moins grand ou plus ou moins serré.

Chaque domicile possède au moins une cour devant la maison principale, une cuisine ou des dépendances sur les côtés, un jardin ou un espace planté et même une mare si le terrain est plus grand. La maison sera construite en brique et couverte de tuiles si on est aisé; sinon elle est couverte en paille.

Néanmoins on se réjouit de vivre avec un homme de bon coeur, même dans une paillote.

Les anciens villages sont entourés d'une haie de bambous pour se protéger et pour se servir du matériel à diverses utilisations. Pour la garde et la protection de la commune, on construit  aux entrées du village des portiques en maçonnerie. Ces derniers sont quelquefois surélevés d'un pavillon de garde. Souvent, à l'ombre du vieux banian et à côté d'un étang, ces portiques deviennent l'image représentative du village et la place de repos idéal pour les villageois, en été.

Si une route passe à côté du village, on y construit aussi des portiques qui s'ouvrent sur les hameaux.

Si un cours d'eau coule dans le voisinage; on le franchit par un joli pont en pierre, qui est un assemblage de planches de pierre sur pilotis et de traverses de calcaire bien moulurées et ornées de belles sculptures. Si la région est riche en bois, on aura un pont couvert, légèrement curviligne, doté de bancs sur les côtés et quelquefois d'un autel du génie de la rivière à la travée centrale. C'est un centre de repos idéal en été pour les passants et pour ceux qui travaillent en pleins champs.

Y Le đình (maison communale)  est la plus grande construction d'un village. Les anciens đinh au plan rectangulaire sont couverts d'une large toiture qui s'élève haut à la faîtière, mais qui descend bas, aux rives et qui se retrousse vivement aux angles.

Les arêtiers du đinh sont garnis de moulages ou de céramiques d'ornement représentant de dragons et des animaux fantastiques qui s'animent à l'aurore et au coucher du soleil.

Les anciens đinh sont munis de planchers en bois qui servent de sièges de réunion pour les notables et les hommes du village. Les colonnes du đình sont volumineuses, elles atteignent quelquefois un mètre de diamètre. La charpente est ornée d'une profusion de sculptures, exprimant souvent la vie populaire du pays. Mais ce qui attire le plus est toujours l'autel du génie tutélaire, au fond de la travée centrale, qui resplendit avec ses nombreuses sculptures sur bois, laquées et dorées, ses objets de culte en cuivre, ses oriflammes, ses  parasols aux vives couleurs...

Le đình est silencieux les jours ordinaires. Mais aux jours de fête, il est largement ouvert, on y apporte des offrandes de culte, on y allume les cierges, on y brủle des encens parfumés, on  frappe un gros tambour, on joue une musique cérémonieuse. Les officiants, bien coiffés, bien chaussés et vêtus de robes bleues, se prosternent alors et font diverses actes de culte. Puis, de nouveau, on frappe le tambour, on joue de  la musique et la clarinette reprend...

Le terrain est souvent libre au devant et sur les deux côtés du đình. On s'en sert pour y tenir un marché. Le marché se tient sous des pavillons, couverts de chaume ou de tuile, ou à l'air libre, à l'ombrage des vieux banians, ou des badamiers. Chaque région a son propre marché mais le marché de Yên Phụ, près de la ville de Bắc Ninh, est le plus remarquable par son architecture. Ce sont des galeries de tuiles qui entourent les trois côtés de la cour du đình du village et dont l'entrée se fait par un portique dominant la galerie frontale.

Des toits à quatre pans triangulaires surgissent au-dessus des toitures aux deux angles des galeries. Les angles des toitures qui se retroussent harmonieusement, à l'ombrage des banians, constituent de beaux et pittoresques tableaux de marchés de village.

YLa pagode est, en général, installée dans un endroit calme du village. Sa construction débute souvent par une paillote. Avec le temps, elle devient plus importante. Le bâtiment principal a un plan en T qui comprend un sanctuaire, installé dans la partie verticale et une salle de prière dans la partie horizontale. Dans le sanctuaire s'assemblent plusieurs statues, rangées en gradins, devant lesquelles le bonze fait les prières en frappant, en cadence, sur le tocsin de bois et la cloche de bronze.

Dans les grandes pagodes, on peut compter le long du mur de pignons de la salle de prière, huit statues de guerriers qui sont les protecteurs du bouddhisme et dix-huit arhats le long des murs des galeries latérals conduisant au pavillon postérieur où l'on rend culte aux bonzes et religieux décédés. Un enclos est ainsi crée autour du sanctuaire. Des plantes d'agréments odorantes plantées là contribuent à créer une atmosphère suave à la pagode.

Des prières se font entendre à l'aurore et au coucher du soleil, accompagnés du son d'une cloche qui résonne longuement. Cette dernière est suspendue dans le pavillon à double toiture, dont les angles se retroussent comme des mains jointes faisant la prière aux quatre directions de l'espace.

Les tombeaux des bonzes, qui ont l'apparence de tours, sont élevés dans les jardins de la pagode. Ils ont généralement trois niveaux, de forme carrée ou octogonale et couronnés par une toiture curviligne.

YLes temples des grands hommes ou des héros sont, en général, élevés dans des sites historiques comme par exemple le temple des Hung à Lâm Thao (P.Phú-Thọ), le temple de An Dương Vương à Cổ Loa, le temple des deux Soeurs à Hát Môn, le temple dédié à Trần Quốc Tuấn à Kiếp Bạc etc...

Dès les premiers temps de la Restauration des Lê, ceux qui ont rendu de grands services à l'état sont vénérés dans les đình comme génies tutélaires du  village.

La composition architecturale des temples diffère de celle des pagodes par l'absence des galeries qui entourent le sanctuaire. Mais le temple est doté de pavillons latéraux qui bordent la cour antérieure et présente des portiques ornés de sculptures de chevaux et d'éléphants en haut relief.

Nous devons pareillement considérer les temples de la littérature dont le plus célèbre est celui de Hanoi. Ce dernier a été créé sous les Lý au 11e siècle, mais l'architecture actuelle du bâtiment principal  date de la restauration au 18e siècle. Les stèles de pierre ont été commencées à être élevées à la fin du 16e siècle; le pavillon à l'étage Khuê Văn date du début du 19e siècle et le portique à la fin du siècle.

A partir du 16e siècle, depuis que le Confucianisme était devenu prépondérant, les temples de la littérature furent élevés partout où il y avait des érudits. Sous les Nguyên, chaque province avait son propre temple. L'influence de l'architecture de Huê se voit même au Nord, dans les bâtiments principaux des temples provinciaux de Hai Dương et de Sơn Tây, où le reste des constructions conserve en revanche son style régional.

Le Viêt-nam ne possède pas de constructions colossales. Ses édifices sont plutôt à l'échelle humaine et ont pour base le bois, comme chez les autres peuples de l'Asie orientale. Contrairement aux Chinois qui aiment des couleurs vives dans leurs architectures, les Vietnamiens préfèrent la couleur naturelle du bois, et la texture de certains genres de bois...

Les maisons du peuple sont limitées en dimensions et en décors. Le dragon, par exemple, ne figure jamais dans une construction du peuple. Alors on simule le décor sous forme d'un pêcher ou d'un bambou en bas relief ayant l'allure d'un dragon.

 L'architecture vietnamienne ne s'éloigne jamais de la nature. Les temples, les pagodes, les palais, les grandes constructions se placent toujours à l'ombre de grands arbres. Ces derniers sont plantés dès la fondation des monuments. Les habitations du peuple ont toujours, à proximité, des espaces de verdure ou un jardin.

Autrefois, lorsque l'on projetait de construire un bâtiment, d'établir une habitation ou un mausolée, il fallait faire attention au choix du terrain, à son orientation, selon les principes de la géomancie, pour avoir des conditions favorables à la vie humaine.

Les anciens peuples de l'Asie orientale préfèrent, dans l'architecture, les lignes adoucies qu'aux lignes rectilignes. La toiture aux angles retroussés en est un exemple typique. Pourtant, ces toitures ne sont pas tous identiques d'un pays à l'autre. En Chine du Nord, au Japon, les angles des toitures se relèvent à peine tandis que dans la vallée du Yangtsé, ils se retroussent hardiment. Le faîtage des toits de Foukien s'incurve nettement. Ce toit chinois paraît mince, élégant à côté du toit vietnamien qui apparaît plus épais, plus solide avec une bordure en bois qui soutient les dernières tuiles du bord du toit. Aux angles des toitures du Nord Viêt-nam, les deux planches de la bordure s'engrennent en s'incurvant et déterminent la courbe retroussée de l'angle de la toiture.

Les toits aux angles retroussés de l'architecture extrême orientale ne s'éloignent pas, en somme, de la nature ambiante par leurs formes arrondies. Au Viet-nam, même les paillotes n'ont pas une silhouette rectiligne. Lorsqu'elles sont en briques, les habitations ont des pignons qui dépassent la toiture en ornement et qui sont munis d'ouvertures d'aérations traitées en décors. Les pignons sont quelquefois prolongés en avant par des pylônes d'apparat, qui se familiarisent avec la pergola des plantes grimpantes avec des aréquiers, des papayers, des arbres fruitiers plantés devant ou à proximité de la maison.

Le cadre familier de l'ancien Viêt-nam commence à changer, depuis le milieu du 19e siècle, à cause de l'emprise occidentale.

Les bâtiments à étage et en maçonnerie construits dans les villes ont influencé la construction locale en dur.

Les architectures en bois commencent à s'envelopper de murs en briques et à être dotées d'une façade véranda à arcades, aux balustrades et piliers décorés en style occidental. On construit de plus en plus en briques, en fer et en ciment, même à la campagne. C'est une évolution naturelle de la vie humaine si on adopte une nouvelle et bonne chose. La culture étrangère enrichit donc la culture nationale. Ce fait est cependant reprochable lorsque les gens sont trop épris des nouveautés et ne font plus attention à l'héritage des ancêtres, même s'il s'agit de meilleur chose.

Dans le domaine de l'architecture traditionnelle, il ne reste pas beaucoup de vestiges. Les causes en sont les suivantes.

a - La vieillesse: L'architecture vietnamienne est, généralement, réalisée en bois. Sous un climat tropical chaud et humide, même les bons bois ne durent pas 8 à 900 ans.

Si on fait une restauration, l'architecture originelle n'est souvent pas respectée. Plusieurs anciens monuments ne conservent ainsi que leur nom, car l'architecture a été modifiée au cours des restaurations

b - La guerre - Le Viêt-nam est un des pays qui a subit le plus grand nombre de guerre. La guerre est dévastatrice. Les Mongols ont détruit tous les palais des Trần. Chế Bồng Nga a franchi la mer pour venir plusieurs fois piller Thăng long. La guerre civile entre les Trịnh et les Mạc a dévasté le pays de An-trường (Thanh-hoá) à Đông Đô (Hà-nội).

c- Anéantissement: Sous la domination chinoise des Ming, afin d'annexer totalement le Viêt-nam, les Chinois anéantissement la culture et les monuments du Viêt-nam. Après leurs 20 ans d'occupation, il ne reste que quelques vestiges de monuments des Lý et des Trần.

e - Haine individuelle et haine des dynasties

Il semble que les anciens Vietnamiens n'ont pas l'esprit de conserver les antiquités et les biens d'état. Il n'est pas rare de constater qu'une nouvelle dynastie, une fois au pouvoir, détruit les vestiges de la dynastie renversée. C'est, par exemple, ce qu'ont fait les Trịnh contre les Mạc puis Lê Chiêu Thống contre les Trịnh en brủlant leur palais et tout ce qu'ils ont construit.

Gia long, qui combattait les Tây Sơn, détruisit les palais Phú Xuân où Nguyễn Huệ a résidé. Récemment,  dans la stratégie de terre brủlée en 1947, plusieurs vestiges d'histoire et de culture ont été détruits.

Peut être par prédestination, l'auteur a passé son enfance dans un cadre semi-urbain où se  trouvent d'anciens monuments: pagodes, temples, đình qui datent du 18e siècle dont la vie traditionnelle est vivante.

Lorsqu'il était jeune,  il faisait des excursions dans les sites célèbres, aux environs de Hanoi, surtout à Sơn tây et Bắc Ninh. Etudiant en architecture, il a étudié l'architecture vietnamienne et les architectures extrême orientales...

Il a commencé à travailler en 1949 au service des Bâtiments civils puis au service de conservation des Monuments historiques à Hanoi où il a continué à étudier et à faire des recherches sur l'architecture traditionnelle. Il a réalisé la reconstruction du temple Lý quốc Sư, le pavillon Trấn Ba đình et le pont Thê Húc au temple Ngọc Sơn, le temple Voi Phục (Eléphant agenouillé), le temple Tú Uyên et la pagode Một Cột (Pilier unique). De 1955 à 1975, il a travaillé à l'Institut des Recherches archéologiques où il a été chargé de la conservation et la restauration des monuments historiques à Hué et des autres monuments du Sud Viêt-nam. Il a en outre réalisé des architectures nouvelles, inspirées du classique vietnamien tels que la pagode de Vĩnh Nghiêm à Saigon, le temple  Bà Chúa Xứ (Divinité locale )  à Châu Đốc.

A partir de 1975, vivant à l'étranger, toujours nostalgique du pays, il n'a pas cessé de récupérer les anciennes images du Viêt-nam. Il a redessiné des photos et des images qui n'étaient pas clairs, nets. L'auteur a la chance de conserver ses dessins faits sur place de 1941 à 1943. Il a fait des dessins de mémoire de certains sites et monuments dont il se rappelle bien l'architecture.

Maintenant à la retraite et ayant des moyens opportuns, l'auteur rassemble ces dessins et les commente afin de les faire publier, souhaitant que ses illustrations puissent contribuer dans certaines mesures à la connaissance à l'architecture traditionnelle du Viêt-nam, à sa conservation et à son développement.
Nguyễn  Bá Lăng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét