Giết hại công thần
Có một sự kiện gần như một định luật trong lịch sử Việt nam là những người dựng nên đế nghiệp thường hay giết hại công thần sau khi đã thành công. Tại sao? Câu trả lời gần như tự động là những người đó gian xảo, bội bạc. Xét cho cùng thì câu trả lời này không đúng.
Những người đã có khả năng qui tụ nhân tài, khiến họ tận tụy và nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử với mình tất nhiên phải có những đức tính đặc biệt. Họ phải là những người có khả năng thu hút, chinh phục lòng tin và sự trung thành bằng cách chứng tỏ tài năng và đức độ. Trừ một vài ngoại lệ rất họa hiếm, họ phải là những người khá tốt và thủy chung. Ngày nay một người tham gia một tổ chức chính trị chỉ kết bạn với lãnh tụ mà thôi, nếu thất vọng có thể bỏ ra đi, nhưng ngày xưa thì khác hẳn. Lãnh tụ không những phải là người lãnh đạo mà còn là minh chủ, một chúa công có quyền trên tính mạng của thuộc hạ. Các nhân tài ngày xưa vì vậy chọn chúa rất thận trọng, họ hỏi han về minh chủ, tới yết kiến minh chủ, quan sát từng thái độ, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, có khi xem tướng rồi mới quyết định vì đó là quyết định vô cùng quan trọng đối với họ. Họ khó có thể lầm được. Muốn được họ thờ thường phải là người có đức lớn. Trong vô số những người phất cờ khởi nghĩa chỉ có một người thành công thì người đó phải là người có bản lãnh phi thường, mà bản lãnh lớn nhất là qui tụ, điều động, chinh phục lòng tin. Khó mà có thể giả dối được bởi vì không thể đánh lừa một số người đông đảo trong suốt một thời gian dài tranh đấu cam go.
Vậy mà ông vua nào thành công dựng được nghiệp đế cũng giết hại công thần cả. Như thế việc giết hại công thần phải có một giải thích khác hơn là sự bội bạc. Giải thích đó là sự giết hại công thần là cần thiết trong lô-gích Khổng Giáo.
Khổng Giáo coi quyền của vua là quyền thiêng liêng của trời cho. Quần thần phải phục tùng vô điều kiện, có chết cũng không được thắc mắc. Đã là quyền thiêng liêng thì trời ban cho ai, người đó được. Đã là kẻ sĩ, nghĩa là đã từ bỏ mọi ý định làm chủ để chỉ nuôi giấc mộng làm tôi cho một minh chủ, thì dĩ nhiên phải tự coi là mình không có mệnh trời đó rồi. Hạnh phúc của kẻ sĩ chỉ là được vào chốn cũng đình, thấy mặt long nhan, được chút chức vị và hầu hạ một người được trời trao thiên mệnh. Nhưng những kẻ sĩ giúp một anh hùng lập nghiệp đế thì lại khác. Họ đã được gặp một người dựng nghiệp, nghĩa là còn có mệnh trời hơn hẳn những ông vua khác. Họ đã chia cơm sẻ áo, chen vai sát cánh với kẻ anh hùng đó. Họ đã chứng kiến những sự lo âu, hốt hoảng, những sai lầm và nhát sợ của người anh hùng đó. Họ đã chứng kiến tận mắt và đầy đủ một cuộc lập nghiệp đế vương và đã khám phá ra rằng cuộc dựng nghiệp này chẳng có gì là thần thánh cả. Họ không còn là nhưng kẻ sĩ chân chính nữa. Những công thần đã giúp vua dựng nghiệp cũng phải là những người rất đởm lược, họ dễ nhận ra là ông vua anh hùng nhất cũng không khác họ bao nhiêu. Họ đã nhìn thấy bí quyết dựng nghiệp, họ đã nhận ra sự tương đói của thuyết thiên mệnh và biết đâu họ đã thấy chính họ cũng có thể làm vua. Vì thế họ phải chết.
Kẻ đế vương thực ra cũng không có chọn lựa. Tất cả căn bản quyền lực của ông ta dựa trên sự chính đáng của thiên mệnh, ông ta không thể dung túng những kẻ không còn tin tưởng tuyệt đối ở sự huyền bí đó nữa và lại có khả năng ngang tầm với ông ta. Đó không phải chỉ là mối nguy mất ngôi vua mà còn là mói nguy mất mạng và tuyệt giống bởi vì trong hệ thống quân chủ chuyên chế, thiên mệnh đã được trao cho ông ta rồi thì chỉ có cái chết mới có thể tước đoạt, và nhổ cỏ thì phải nhỏ tận gốc. Những công thần có khả năng để dọa ngôi báu hay làm mất đi tính thiêng liêng của nó vì vậy phải bị tiêu diệt.
Nhưng những công thần trung thành tuyệt đối cũng không thể dung túng được, bởi vì họ để dọa trật tự của chế độ quân chủ tuyệt đối trong đó quần thần không hơn những con vật trước mặt nhà vua, vua muốn nọc ra đánh, muốn thiến tùy ý. Những khai quốc công thần không còn là những kẻ sĩ chân chính nữa vì họ đã quá quen với vua, đối xử với họ như vậy không khỏi mang tiếng tệ bạc, mà không đối xử như vậy thì không còn kỷ cương triều đình. Họ là những cái gai phải nhổ để trật tự vua tôi được trở lại bình thường.
Mối liên hệ vua tôi, cốt cán của tư tưởng chính trị Khổng Giáo, đưa tới hai hậu quả.
Một là, kẻ sĩ, tinh hoa của xã hội, mất hết nhân cách, xã hội vì thế lẫn quẩn trong sự thui chột và hèn kém.
Hai là, các cuộc khủng hoảng xã hội rất khó có lối thoát. Kẻ sĩ chân chính không phải là người khởi nghiệp. Triết lý của họ là lúc khó khăn thì lánh mặt. Chỉ có một số rất ít có chí khí để tham gia tranh đấu trong thời ly loạn mà thôi. Những kẻ này phải chọn minh chủ thật kỹ. Trước hết minh chủ phải là người có chân mạng đế vương, nếu không thì theo ông ta chỉ uổng mạng mà thôi, sau đó minh chủ lại phải là người thật trung hậu, nếu không thì khi thành công mạng mình cũng toi mạng về tay ông ta. Lịch sử Trung Quốc không thiếu những chuyện những người giúp chủ dựng nghiệp, lúc thành công thì vội vã cao bay xa chạy. Kết quả là ít ai nhập cuộc, những loạn lạc thường kéo dài rất lâu, những kẻ có gan dạ dấn thân đã rất ít mà trong số này, những người tìm được minh chủ lại càng khó. Và những người dám đứng lên khởi xướng thì lại không thể kết hợp được với nhau, bởi vì không ai dám nhường ngôi minh chủ cho người khác, nhường ngôi minh chủ là nhường tất cả chứ không có thoả hiệp nào. Với thời gian chọn đúng chúa mà thờ trở thành một lo âu làm tê liệt những kẻ sĩ hiếm hoi có ý định cứu đời. Trong đa số trường hợp đưa họ trở lại sự thụ động cố hữu.
Ngày nay triết lý thiên mệnh của Khổng Giáo đã đi vào quá khứ, ít ai còn tin có nhưng kẻ có thiên mạng đế vương nữa. Nhưng cái tâm lý chọn minh chủ vẫn còn tồn tại, và bởi vì nó là một tâm lý, nó nấp kín trong thâm sâu của chúng ta, nó chi phối hành động của chúng ta một cách bí mật đến nỗi chính chúng ta không thấy. Hai câu chuyện sau đây chứng tỏ cái tâm lý mà ta tưởng như đã hoàn toàn biến mất thực ra vẫn còn lảng vảng đâu đây. Tôi kể ra chỉ để độc giả thấy rằng đoạn tuyệt với một văn hóa là một điều rất khó.
Ngày nay triết lý thiên mệnh của Khổng Giáo đã đi vào quá khứ, ít ai còn tin có nhưng kẻ có thiên mạng đế vương nữa. Nhưng cái tâm lý chọn minh chủ vẫn còn tồn tại, và bởi vì nó là một tâm lý, nó nấp kín trong thâm sâu của chúng ta, nó chi phối hành động của chúng ta một cách bí mật đến nỗi chính chúng ta không thấy. Hai câu chuyện sau đây chứng tỏ cái tâm lý mà ta tưởng như đã hoàn toàn biến mất thực ra vẫn còn lảng vảng đâu đây. Tôi kể ra chỉ để độc giả thấy rằng đoạn tuyệt với một văn hóa là một điều rất khó.
Cách đây không lâu, một lãnh tụ của một tổ chức chính trị có lúc gây được tiếng vang đã có nhã ý đến thăm tôi. Tôi hỏi anh lý do nào có thể khiến một người tham gia tổ chức của anh. Anh đắn đo rồi trả lời bởi vì người ta ngưỡng mộ một lãnh tụ như anh. Đó là một thanh niên hoàn toàn được đào tạo tại một nước tân tiến.
Tôi cũng biết hai người khoa bảng khác được đào tạo tại phương Tây. Không những chỉ có bằng cấp lớn mà họ còn thực sự có khả năng và bản lãnh lớn, tôi rất ngưỡng mộ họ. Câu chuyện của họ lại có liên quan tới chính tôi. Chúng tôi đã sát cánh cùng nhau tranh đấu cho dân chủ trong một thời gian. Có cố gắng dài hơi nào mà không có lúc đem tới sự mệt mỏi và nghi hoặc? Một hôm tôi được họ mời đi ăn tối cùng với một người lạ mặt mà sau này tôi được biết là một nhà tướng số nổi tiếng. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ, nhà tướng số kia đặt nhiều câu hỏi về tôi. ít lâu sau cả hai bạn tôi tuyên bố ngưng hoạt động. Mãi về sau tôi mới hiểu là tất cả do bữa cơm tối đó. Họ đã nhờ nhà tướng số kia cho biết về tôi và kết luận của vị này là tôi không có tướng của một minh chủ.
Tôi rất buồn vì mất hai bạn đồng hành hiếm có, nhưng tôi rất kính trọng họ, họ là những trí thức hiếm hoi còn có ý định dấn thân, và thực sự đã vất vả với tôi trong một thời gian. Tôi chỉ giận cái tâm lý kẻ sĩ của Khổng Giáo không chịu cút hẳn khỏi tâm hồn người Việt. Tôi cũng không giận ông thày tướng kia vì thực ra ông ta nói đúng: thời này làm gì còn minh chủ, chỉ có những kẻ khùng mới nuôi mộng làm minh chủ mà thôi. Tôi chỉ muốn góp phần nhỏ bé của mình cho thắng lợi dân chủ mà thôi. Vậy mà cũng gian truân.
Anh không biết gì về cộng sản
Chương Mặt Thật Của Ai ? mà quí vị vừa đọc phần lớn lấy từ một bài báo cùng để tựa mà tôi đã gởi đăng báo Ngày Nay (Houston, Hoa Kỳ). Bài báo này đã gây cho tôi khá nhiều vấn đề. Trước hết là ngay trong nội bộ nhóm Thông Luận. Mới đầu tôi định đăng báo Thông Luận, tôi không ngờ gặp phải những phản ứng rất mạnh của những người bạn mà tôi đưa đọc trước. Họ sợ một bài báo như thế sẽ đem lại cho nhóm Thông Luận nhưng thù ghét mới. Thấy rằng nếu đăng báo Thông Luận có thể sẽ gây sứt mẻ đáng tiếc, tôi gởi đăng báo Ngày nay, rồi lại gặp một vấn đề khác. Một anh bạn đọc xong, nỗi giận nói rằng một bài đặc sắc như vậy sao không đăng báo mình mà lại đem đăng báo khác. Bài đăng trên báo Ngày Nay cũng làm tôi vất vả.
Một loạt bài phản bác dữ dội được tung ra ngay sau đó. Một vị ở Houston, mà sau này tôi được biết là có kiến thức khoa học, cho rằng bài đó là một xúc phạm lớn đối với tổ tiên; Nguyễn Gia Kiểng là tác giả bài đó thì là chính phạm, nhưng báo Ngày Nay đã đăng bài đó thì cũng là tòng phạm. (chính phạm và đồng phạm là những tiếng được dùng trong bài). Nếu có quyền, chắc chắn các vị này đã lôi cổ tôi ra tòa và tặng cho vài cuốn lịch rồi. Cả tác giả bài đả kích này lẫn tờ báo đăng nó đều đang nỗ lực tranh đấu lên án cộng sản chuyên chính giáo điều, chà đạp tự do ngôn luận và báo chí.
Một nhân sĩ nhân đọc bài báo của tôi trên Ngày Nay, cảm hứng viết một bài góp ý, với tựa để là Nghe Quì , đóng góp thêm một số ý kiến cá nhân đồng thời phê phán một số nhân vật. Thế là tôi lại lãnh một bài đánh khác, mà lần này đánh oan vì những ý kiến làm tác giả bài đánh này nỗi giận không phải là của tôi mà là của vị nhân sĩ kia. Quá giận, tác giả lôi cả thân thế tôi ra phê phán và kết luận tôi là hạng người vô liêm sỉ. Cũng may lúc đó tôi có chút thời giờ rảnh rỗi nên đã gởi nguyên văn bài của mình cho tác giả. Ông này tỏ ra rất đứng đắn vì sau đó, khi đã biết có sự hiểu lầm, ông viết cho tôi một lá thư ngắn với lời lẽ thân thiện và cho đăng một bài cải chính trên ngay tờ báo đã đăng bài đánh tôi. Đó là lần duy nhất tôi thấy một người đánh oan một người khác đã giải oan cho người đó. Bình thường thôi đánh cũng là phúc lắm rồi.
Một lần chúng tôi gặp một sự cố trong một buổi họp Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận. Bình thường thì những buổi họp của Câu Lạc bộ là sự gặp gỡ thân thiện của những người có cảm tình với nhau dù cùng hay không cùng chính kiến. Khi thành lập, chính tôi đề nghị đặt tên là Câu Lạc Bộ Độc Giả Thông Luận nhưng đề nghị của tôi bị phản bác, một vị đã đề nghị thay Độc Giả bằng Thân Hữu với lập luận rằng ai muốn là độc giả chẳng được, nhưng muốn gặp nhau thảo luận thì phải có tinh thần thân hữu, thân hữu không có nghĩa là đồng ý mà chỉ là thái độ thân thiện, tương kính. Tôi vẫn thấy hai chữ Thân Hữu có vẻ giới hạn quá. Biểu quyết, và tôi thua. Kết quả là Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận ra đời với mục đích là lâu lâu gặp nhau một lần để thảo luận trong tinh thần không có ý kiến nào cấm nêu ra, không có đề tài nào cấm bàn đến.
Trớ trêu thay hôm xảy ra vụ lộn xộn đó, thuyết trình viên lại chính là người đề nghị thay độc giả bằng thân hữu. Việc ông được chọn để dẫn nhập buổi gặp gỡ đó đã được quyết định từ mấy tháng trước, nhưng trong khoảng thời gian đó ông trở thành tổng thư ký của một tổ chức mới, tuy vừa thành lập nhưng có sức mạnh vì chỉ là mặt ngoài của một tổ chức đã có từ lâu và có rất nhiều phương tiện. Chức vụ mới đó đã khiến ông không còn thân hữu với chúng tôi nữa và ông đem đến cả một lực lượng hùng hậu. Buổi họp biến thành một tòa án nhân dân xử nhóm Thông Luận. Lực lượng này nhao nhao lên, bất chấp chủ tọa, muốn nói là nói, nói gì cũng được vì họ sẵn sàng ẩu đả và hình như chỉ đợi cơ hội để ẩu đả. Chúng tôi cố nhịn nhục cho qua. Rồi buổi họp cũng xong, nhưng một thanh niên xấn lại phía tôi, chỉ tay vào mặt tôi mà nói: Anh là đồ ngây thơ ấu trĩ, anh không hiểu gì về cộng sản cả.
Trớ trêu thay hôm xảy ra vụ lộn xộn đó, thuyết trình viên lại chính là người đề nghị thay độc giả bằng thân hữu. Việc ông được chọn để dẫn nhập buổi gặp gỡ đó đã được quyết định từ mấy tháng trước, nhưng trong khoảng thời gian đó ông trở thành tổng thư ký của một tổ chức mới, tuy vừa thành lập nhưng có sức mạnh vì chỉ là mặt ngoài của một tổ chức đã có từ lâu và có rất nhiều phương tiện. Chức vụ mới đó đã khiến ông không còn thân hữu với chúng tôi nữa và ông đem đến cả một lực lượng hùng hậu. Buổi họp biến thành một tòa án nhân dân xử nhóm Thông Luận. Lực lượng này nhao nhao lên, bất chấp chủ tọa, muốn nói là nói, nói gì cũng được vì họ sẵn sàng ẩu đả và hình như chỉ đợi cơ hội để ẩu đả. Chúng tôi cố nhịn nhục cho qua. Rồi buổi họp cũng xong, nhưng một thanh niên xấn lại phía tôi, chỉ tay vào mặt tôi mà nói: Anh là đồ ngây thơ ấu trĩ, anh không hiểu gì về cộng sản cả.
Tôi biết lúc đó không phải là lúc để thảo luận với anh ta. Tôi cũng không giận anh ta, từ đầu buổi họp tôi nhận xét anh ta là một trong những người ôn hòa nhất của lực lượng này. Dáng dấp anh ta cũng khá trí thức, đôi mắt thông minh và hiền lành. Vả lại anh ta cũng khá khoan dung đối với chúng tôi: chúng tôi chỉ ngây thơ ấu trĩ và không biết gì về cộng sản chứ không phải là những tên phản bội, những tay sai cộng sản như các bạn anh ta nói sang sảng trong suốt buổi họp. Anh ta trạc độ ba mươi tuổi.
à, nếu tôi có thể ngây thơ ấu trĩ được thì diễm phúc biết bao nhiêu? Tiếc quá, lúc đó tôi đã gần năm mươi tuổi rồi mà chưa làm được gì ra hồn, cuộc đời cũng chẳng có gì vui, đã nhiều thất vọng và mất mát. Muốn ngây thơ cũng không được nữa.
Không biết gì về cộng sản? Tôi biết không nhiều nhưng cũng biết chút đỉnh. Lớn lên ở vùng quê do cộng sản kiềm soát, cha bỏ trốn, chú bác bị giết, mẹ dắt ra hầu tòa án nhân dân từ thời năm tuổi. Lớn lên chống cộng từ thời sinh viên, chống cộng trong hàng ngũ Việt nam Cộng Hòa, đi tù cộng sản, làm viên chức cộng sản, làm dân cộng sản, sống ngoài vòng pháp luật dưới chế độ cộng sản, rồi ra hải ngoại chống cộng sản. Có thể nói tôi là một trong những người có cơ hội quan sát cộng sản dưới mọi gốc nhìn và cọ sát với cộng sản trên nhiều cương vị. Anh thanh niên kia chắc có thân nhân bị đi tù cải tạo, gia đình có thể đã bị tịch thu tài sản và đã gian lao tìm cách vượt biên, như thế là đủ để anh ấy nghĩ mình biết rõ cộng sản đủ tư cách để coi những người không coi cộng sản như quỉ ma, thể dữ là không biết gì về cộng sản.
Thái độ của anh ta không làm tôi ngạc nhiên chút nào, bởi đó là thái độ tự nhiên của con người trong văn hóa Khổng Mạnh, một văn hóa được lưu truyền qua cuộc sống, từ đời này qua đời khác trải mấy nghìn năm, mà người ta tiếp thu một cách tự nhiên và vô tình. Văn hóa Khổng Mạnh là thứ văn hóa xác quyết, bất cần chứng minh. Ông Khổng Khâu, ông Mạnh Kha và tất cả các danh nho qua các thời đại chỉ khẳng định một cách chắc nịch thôi chứ có bao giờ cần chứng minh cái gì đâu. Ông Khổng Khâu nói người có hiếu thì cha chết ba năm không được thay đổi nếp sống gia đình do cha để lại, người ngay thẳng thì cha có đi ăn trộm cũng phải bao che, nhưng ông không hề bận tâm giải thích tại sao. Các ông thánh hiền kế tiếp nói rằng đã là đàn bà đức hạnh thì phải phục tòng cả cha, lẫn chồng, lẫn con cũng có cần biện luận gì đâu. Văn hóa của chúng ta là cái. Văn hóa trong đó mình cứ ném bừa chân lý của mình vào mặt người khác mà không cần suy nghĩ xem đó có phải là những chân lý thực không.
Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa phủ nhận kiến thức. Người ta không cần nghiên cứu, tìm hiểu, miễn là cứ thấy phải đạo là có thể tự tin và tự hào được rồi. Tất cả các cuốn Tứ Thư, Ngũ Kinh nếu gộp chung lại tất cả và in thành một cuốn sách thì cũng chỉ vài trăm trang thôi, nghĩa là chỉ bằng một nửa cuốn sách mà các vị đang cầm trong tay thôi. Một người bình thường có thể học một tuần lễ là xong, thế mà các sĩ tử cứ nhai đi nhai lại trong mấy ngàn năm thì hỏi kiến thức có cái gì đáng kể? Ông Phần Khôi là một nhà nho xuất chúng, ông đi học chữ quốc ngữ tới trình độ tiểu học và quả quyết là đã học hỏi được nhiều hơn hẳn so với thời kỳ học chữ nho. Với thời gian, cả một xã hội học thói quen nói và làm mà không cần một kiến thức nào cả. Thái độ này tạo ra một niềm tin thầm kín rằng mọi người như nhau, chẳng ai biết gì hơn ai. Người ta có thể nói với bất cứ ai anh không biết gì cả, bởi vì thực ra trong tiềm thức người ta đang nói về chính mình.
Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa phủ nhận kiến thức. Người ta không cần nghiên cứu, tìm hiểu, miễn là cứ thấy phải đạo là có thể tự tin và tự hào được rồi. Tất cả các cuốn Tứ Thư, Ngũ Kinh nếu gộp chung lại tất cả và in thành một cuốn sách thì cũng chỉ vài trăm trang thôi, nghĩa là chỉ bằng một nửa cuốn sách mà các vị đang cầm trong tay thôi. Một người bình thường có thể học một tuần lễ là xong, thế mà các sĩ tử cứ nhai đi nhai lại trong mấy ngàn năm thì hỏi kiến thức có cái gì đáng kể? Ông Phần Khôi là một nhà nho xuất chúng, ông đi học chữ quốc ngữ tới trình độ tiểu học và quả quyết là đã học hỏi được nhiều hơn hẳn so với thời kỳ học chữ nho. Với thời gian, cả một xã hội học thói quen nói và làm mà không cần một kiến thức nào cả. Thái độ này tạo ra một niềm tin thầm kín rằng mọi người như nhau, chẳng ai biết gì hơn ai. Người ta có thể nói với bất cứ ai anh không biết gì cả, bởi vì thực ra trong tiềm thức người ta đang nói về chính mình.
Không những không trọng kiến thức, mà người ta còn bài bác việc mở mang kiến thức, bởi vì văn hóa Khổng Mạnh chống lại điều mới, nghĩa là chống lại sự tìm hiểu. Khổng Tử nói: Bỏ công ra học điều lạ chỉ có hại (Công hồ dị đoan, tư hại đã dĩ). Những lời vàng ngọc đó trải đời này qua đời khác tạo ra tâm lý coi điều khác lạ là xấu là dở, là sai. Trong ngôn ngữ Trung Quốc mà ta du nhập, chữ dị, nghĩa là khác, đồng nghĩa với xằng bậy. Dị đoan theo nghĩa chiết tự của nó chỉ có nghĩa là điều lạ thôi, nhưng tập quán và thời gian đã biến nó thành nhảm nhí. Lập dị, quái dị, dị nghị, dị hợm đều mang nghĩa xấu cả. Về điểm này đôi khi tôi thấy vui lòng là người Việt nam còn giữ được chữ khác với nghĩa khách quan. Không những bài bác điều mới, văn hóa Khổng Mạnh còn hung bạo với điều mới. Khổng Tử lên làm tướng quốc nước Lỗ thì lập tức giết thiếu chính Mão. Chẳng thấy ông Mão có tội cụ thể nào ngoài tội có tài biện luận và lung lạc người khác. Những ai lên án đảng cộng sản đàn áp những người phát biểu ý kiến ngược lại với đảng nên suy nghĩ lại chuyện này. Nho sĩ theo gương bậc vạn thế sư biểư này đã để xướng lên cả một bổn phận đạo đức: vệ đạo. Vệ đạo là chủ trương bảo vệ toàn bộ các giá trị Khổng Giáo bằng cách đánh phá gay gắt và tiêu diệt bằng bạo lực những kẻ dám đi ra ngoài khuôn mẫu có sẵn. Khổng Khâu và các môn đệ, hậu bối của ông, cũng khuyến khích sự tìm tòi, khảo cứu nhưng với điều kiện là đó chỉ là những tìm tòi phải đạo, với mục đích minh họa những ý đã có sẵn, tương tự như đảng cộng sản kêu gọi sáng tạo với điều kiện là sáng tạo trong đường lối do đảng vạch ra, trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cái chủ trương vệ đạo đó đã làm thui chột cả trí tuệ á Đông và đã dẫn ra pháp trường vô số những người có trí tuệ, đáng lẽ đã có thể cống hiến những đóng góp quí báu. Tôi không thù ghét những người đã đả kích tôi một cách gay gắt, đòi lên án, đòi phải có thái độ, đòi hành hung (kể cả đả thương thực sự) bởi vì đó chỉ là di sản văn hóa của cái tâm lý vệ đạo đã mọc rễ vào tâm hồn chúng ta ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Viết một cuốn sách hay về dân chủ không khó bằng không nổi giận khi có người phát biểu ngược ý minh vì một đằng là kiến thức, một đằng là tâm lý. Kiến thức dễ tiếp thu và cũng dễ thay đổi; tâm lý, trái lại, là cái mà chúng ta không ý thức được và do đó không cảnh giác.
Những phản ứng giận dữ đối với một số bài viết về văn hóa và lịch sử của tôi còn xuất phát từ một di sản khác của Khổng Giáo, đó là tâm lý tôn sùng người xưa. Quí trọng tổ tiên là một tình cảm tự nhiên và cũng là một phần của trí thông minh của loài người. Nó cho phép loài người nối dài cuộc sống trí tuệ của mình tới một thời xa xưa, hiểu được cuộc hành trình đã dẫn tới ngày hôm nay, và cũng ý thức được những điều nên làm cho tương lai. Lòng quí trọng người xưa biến cuộc sống thành liên tục và vĩnh cửu, sinh và tử chỉ là nhưng chốc lát trong cuộc sống liên tục và không ngừng biến đồi của loài người. Quan sát việc làm của người xưa ta rút ra được những kinh nghiệm để xây dựng ngày mai, ta học được những cái đúng của họ, va ta rút nhiều kinh nghiệm quí báu hơn ở những sai lầm của họ. Nhưng sự tôn sùng người xưa của Khổng Giáo không phải như vậy. Nó là một sự tôn sùng bệnh hoạn, coi người xưa là hơn ngày nay, coi người xưa là hoàn toàn đúng, chúng ta chỉ cằn lập lại là đủ. Khổng Tử chủ trương cứ học người xưa là biết việc ngày nay (ôn cố tri tân). Nhan Uyên hỏi ông về việc trị nước, Khổng Tử trả lời: Cứ theo lịch nhà Hạ, đội mũ nhà Chu, dùng nhạc của vua Thuấn, Các nho sĩ sau này còn đề cao hơn nữa cái tinh thần sùng bái và bắt chước tổ tiên đó, và người được đề cao làm mẫu mực hơn cả lại chính là Khổng Tử. Ngay cả những câu nói rất tầm thường, và tầm bậy, của ông như cha con phải giấu tội cho nhau, nước loạn thì chớ ở lại cũng được đưa lên hàng đạo lý. Chính Khổng Tử khi nói những câu này cũng không thể ngờ rằng có ngày chúng sẽ được coi là nhưng khuôn vàng thước ngọc. Ông thủ cựu và kêu gọi thủ cựu, nhưng đó chỉ là những ý kiến thôi, chính các triều đại về sau mới biến nhưng ý kiến của ông thành chân lý bất di bất dịch. Cá nhân Khổng Tử nhiều lần dạy đệ tử không nên phò những vua chúa bất nghĩa, nhưng chính ông cũng hai lần định làm gia nhân cho những kẻ phản bội. Như vậy Khổng Tử tuy thủ cựu nhưng không cứng chác như người ta tưởng. Như đã nói, khi phê phán Khổng Giáo, ta không nên qui trách hết cho Khổng Tử.
Mặc Tử, nhà tư tưởng vĩ đại nhất của Trung Quốc, đã nhiều lần lên án tâm lý rập khuôn theo người trước. Nếu Mặc Tử, thay vì Khổng Tử, được lấy làm mẫu mực thì Trung Quốc đã không thua kém như ngày nay. Mặc Tử có lý: nếu tất cả mọi thế hệ đều lấy những thế hệ trước làm mẫu mực thì xã hội vẫn còn như thời Phục Hy, Thần Nông, nghĩa là vẫn còn ăn lông ở lỗ.
Tinh thần tôn sùng và rập khuôn theo người xưa hình như vẫn còn nặng làm trong tâm lý trí thức Việt nam. Một người bạn của tôi có hai bằng cấp khoa học rất cao tại Mỹ và Pháp, có lần giảng cho tôi về sự cao siêu huyền bí và tính khoa học của khoa tử vi. Tôi hỏi anh ta tại sao anh không thấy cái nhảm nhí của tử vi, chỉ có năm yếu tố thôi: giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, nam, nữ mà suy ra tới 108 sao, nghĩa là chỉ có năm phương trình bậc nhất mà có tới 108 ẩn số thì hoặc là hệ thống phương trình đó không có giải đáp chính xác, hoặc là thực ra chỉ có năm ẩn số mà thôi, 103 ẩn số còn lại tự động suy ra từ năm ẩn số chính, nghĩa là vất đi cũng được. Vậy thì khoa tử vi sai ngay từ đầu, nó chỉ là một bài toán ngây ngô do sự kiện trí tuệ chưa được mở mang mà có. Anh ta cự lại: Tử vi không phải là toán?. Tôi còn biết nói gì đây? Toán có là gì đâu, ngoại trừ là một cách lý luận đúng? Nếu bảo có những cái không cần đúng thì còn gì để bàn? Tức quá, tôi bảo anh ta thử lấy số tử vi của tôi xem sao. Anh ta bèn bấm đốt ngón tay và quả nhiên tôi thấy chỉ có năm sao, tôi không nhớ sao nào, là phải căn cứ vào năm dữ kiện ban đầu mà thôi, những sao khác cứ tự nhiên theo năm sao này mà định vị trí, nhưng anh ta vẫn không chịu thua, anh ta kết luận là tôi không hiểu được cái kiến thức cao siêu của người xưa. Trình độ toán học của anh ta cao hơn tôi nhiều, nhưng anh ta không thấy được cái sai lầm rành rành ra đó vì anh ta đã sẵn có định kiến là người xưa có lý rồi.
Một anh bạn khác cũng tốt nghiệp kỹ sư tại Mỹ và trước đó nổi tiếng là học sinh tú tài xuất sắc nhất của trường Chu Văn An, lận đận tìm cách vượt biên sau năm 1975. Chúng tôi gặp nhau sau khi đi tù cải tạo về và cùng có ý định là trốn khỏi Việt nam. Mỗi lần tính chuyện vượt biên anh đều xem bói dịch. Anh ta giải thích với tôi là bói dịch rất đúng bởi vì nó do Chu Văn Vương chế ra. Tôi nói Chu Văn Vương là tổ nhà Chu, sống vào thế kỷ 12 trước Tây lịch, lúc loài người còn rất man rợ, có gì là thông thái, chẳng qua đó là niềm tin ngây thơ vào quỉ thần của mọi dân tộc bán khai. Anh ta tiếc cho tôi không hiểu được cái huyền bí của Kinh Dịch, bởi vì thời đó con người còn trong sáng và còn giao cảm được với thần linh. Điều nghịch lý là đã mấy lần anh ấy ra đi sau khi trúng một quẻ tốt và lần nào cũng bỏ của chạy lấy người hoặc bị công an bắt trói phải chuộc mạng nhưng anh ấy vẫn tiếp tục tin Kinh Dịch.
Cả hai anh bạn tôi trên đây lúc bình thường đều là những người rất sáng suốt và chính xác, nhưng mỗi khi gặp quyết định khó khăn với một xác suất rủi ro lớn họ lại quay về với những tín ngưỡng cỗ lậu bởi vì sự tôn sùng cổ nhân được truyền từ đời này qua đời khác vẫn còn mai phục trong trí óc họ. Đó là chuyện xa, nhưng còn chuyện gần hơn? Tôi được đọc không biết bao nhiêu tuyên cáo buộc tội lẫn nhau giữa các phe phái trong các đảng Đại Việt và Việt nam Quốc Dân Đảng. Phe nọ lên án phe kia là phản bội đường lối của các cố đảng trưởng, phe nào cũng tự hào là tuyệt đối trung thành với đường lối của các ngài. Sự theo đúng đường lối do người đi trước vạch ra hình như được coi là một tiêu chuẩn để quyết định ai đúng ai sai, ai chính ai tà. Cái tiêu chuẩn kỳ cục này có lẽ chỉ có ở Trung Quốc và Việt nam. Hai dân tộc này coi sự kiện không làm đúng như người xưa là xúc phạm đến người xưa. Trong các nước cộng sản, Trung Quốc và Việt nam cũng là hai nước chống xét lại một cách gay gắt nhất. Đó là di sản của tinh thần bất tác, vô cải mà Khổng Giáo đề cao. Nên nhớ rằng Khổng Tử coi như bổn phận của người con có hiếu là không sửa đổi gì hết nền nếp của cha trong vòng ít nhất ba năm sau khi cha đã mất, nghĩa là nếu mãi mãi không sửa đổi gì thì còn hiếu hơn.
Trong thế giới thay đổi dồn dập này, mà sức mạnh, chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết định bởi ý kiến và sáng kiến, bởi vận tốc của đổi mới, nếu có một tâm lý mà chúng ta phải khẩn cấp từ bỏ thì đó chính là tâm lý thủ cựu.
Ưu đạo bất ưu bần?
Như tôi đã trình bày, khi phê phán Khổng Giáo không nên đồng hóa nó với ông Khổng Khâu, càng không nên đổ hết trách nhiệm cho ông. Ông không chí thánh chí nhân như ông Trần Trọng Kim viết trong cuốn Nho Giáo, những cũng là người tốt, ông mở trường tư đầu tiên và tạo ra một cơ hội tiến thân quan trọng cho tàng lớp thứ dân. Thế cũng là một người có công lớn với đời rồi. Ông dạy học trò nhiều điều về luân lý thực tiễn. Xét theo bối cảnh thời đại của ông, trong những điều ông nói có những điều khá đúng, những điều hơi sai và những điều rất sai. Đó là lẽ tự nhiên, không có học giả, triết gia nào chỉ phát biểu những điều hoàn toàn đúng. Socrate, Platon, Aristote cũng vậy thôi, họ có những ý kiến thật sáng nhưng cũng có những nhận định sai lầm, thiếu sót. Bổn phận của những người đi sau là giữ lại, bổ túc và khai triển những đóng góp đúng, bỏ đi những sai lầm và, dĩ nhiên, không ngừng thêm vào những khám phá mới.
Văn hóa Khổng Giáo trở thành độc hại không phải vì nó sai ngay từ đầu mà vì nó đã không biết đổi mới. Nó đã khai thác triệt để hai tính xấu của Khổng Tử là tinh thần thủ cựu, bài bác điều mới lạ, và tinh thần bất dung (thí dụ như việc giết thiếu chính Mão chỉ vì ông Mão có tài biện luận và không đồng ý với Khổng Tử). Không những thế nó còn bóp méo tư tưởng của chính Khổng Tử.
Một thí dụ của sự xuyên tạc đó là tinh thần an bần lạc đạo, nghĩa là cam phận nghèo mà vui với đạo đức. Tinh thần này theo các nho sĩ lấy từ một câu trong Luận Ngữ. người quân tử chỉ lo giữ đạo lý chứ không lo nghèo (quân tử ưu đạo bất ưu bần). Nhưng Khổng Tử nào đâu có ý định nói như thế. Ông nói nguyên văn như thế này: Người quân tử mưu tìm học đạo chứ không mưu tìm miếng ăn. Làm ruộng có khi mất mùa cũng đói, còn học đạo thì có lộc. Người quân tử chỉ cần lo học cho giỏi chứ đừng sợ nghèo (Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kỳ trung hĩ. Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ. Quân Tử ưu đạo bất ưu bần). Đó chỉ là một lời khuyên thực dụng mà thôi, có nghĩa là cứ lo học đi rồi sẽ được làm quan và sẽ có ăn. Nên nhớ rằng mục đích của việc học đạo chỉ là để được làm quan. ý Khổng Tử qua câu nói này hoàn toàn không phải là sự chấp nhận nghèo khổ miễn là sống hợp đạo đức. (Cần hiểu chữ đạo của Khổng Tử đồng nghĩa với nghề, nghĩa là học thi, thư, lễ, nhạc cho thạo để ra làm quan chứ không phải là đạo đức như ta hiểu). Chính Khổng Tử cũng rất ham phú quí, ông từng nói phú quí mà cầu được thì dù phải làm kẻ cầm roi đánh xe ngựa ta cũng nhận (phú quí nhi khả cầu dã, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi). Khổng Tử lương thiện nhưng không phải vì thế mà ông đề cao sự nghèo khổ. Ông đã đi khắp nơi cầu được làm quan, có lúc sẵn sàng làm gia nhân cho những kẻ giàu có phản trắc. Nhân sinh quan của ông rất thực dụng: cầu ích lợi cho mình và sống lương thiện. Đó là một nhân sinh quan rất khiêm tốn về mặt đạo đức.
Từ đời nhà Hán, luân lý của Khổng Giáo bị bóp méo đi để biến thành một thứ luân lý nông nghiệp lạc hậu. Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ, sau khi diệt được Tần và Sở, thống nhất thiên hạ, nhận định rằng mối nguy cho dòng họ mình là những kẻ giàu có và gan dạ. Ông bèn xóa bỏ thương nghiệp và chỉ giữ lại nông nghiệp. Việc phân chia xã hội ra bốn giai cấp sĩ, nông, công, thương bắt đầu từ đó. Nếu chỉ xét về mục đích duy trì quyền hành thì nhà Hán hoàn toàn có lý. Nghe nông chân lấm lấy bùn, được mùa thì no, mất mùa thì đói, không thể nào giàu lớn được, gia tài chỉ là ruộng đất, có bao nhiêu triều đình thấy rõ hết. Vả lại, người nông dân ở yên một chỗ, kiến thức hạn hẹp mà đởm lược cũng không có bao nhiêu. Trái lại, người buôn bán giao du nhiều, hiểu biết rộng rãi, lại quen đương đầu với rủi ro thành ra gan dạ (có gan làm giàu). Nghề buôn bán lại dẽ phát đạt, có thể đưa tới những tài sản rất lớn, kín đáo và dễ di chuyển. Những thương nhân giàu có này lại không làm quan ăn lộc vua và do đó không mang ơn vua như lớp nho sĩ, họ có thể là những đe dọa lớn cho các vua chúa. Chính vì thế mà nhà Hán dẹp bỏ thương nghiệp, và khi thương nghiệp đã bị xóa bỏ, sự trao đổi hàng hóa không còn nữa thì công nghiệp chỉ còn là một nghề phụ của nghề nông, làm ra những nhu yếu phẩm cho xóm làng mà thôi. Dưới đời nhà Hán, thương nhân không những bị trù dập thô bạo mà còn bị miệt thị như những kẻ xấu xa, đáng khinh bỉ.
Văn hóa Khổng Giáo trở thành độc hại không phải vì nó sai ngay từ đầu mà vì nó đã không biết đổi mới. Nó đã khai thác triệt để hai tính xấu của Khổng Tử là tinh thần thủ cựu, bài bác điều mới lạ, và tinh thần bất dung (thí dụ như việc giết thiếu chính Mão chỉ vì ông Mão có tài biện luận và không đồng ý với Khổng Tử). Không những thế nó còn bóp méo tư tưởng của chính Khổng Tử.
Một thí dụ của sự xuyên tạc đó là tinh thần an bần lạc đạo, nghĩa là cam phận nghèo mà vui với đạo đức. Tinh thần này theo các nho sĩ lấy từ một câu trong Luận Ngữ. người quân tử chỉ lo giữ đạo lý chứ không lo nghèo (quân tử ưu đạo bất ưu bần). Nhưng Khổng Tử nào đâu có ý định nói như thế. Ông nói nguyên văn như thế này: Người quân tử mưu tìm học đạo chứ không mưu tìm miếng ăn. Làm ruộng có khi mất mùa cũng đói, còn học đạo thì có lộc. Người quân tử chỉ cần lo học cho giỏi chứ đừng sợ nghèo (Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kỳ trung hĩ. Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ. Quân Tử ưu đạo bất ưu bần). Đó chỉ là một lời khuyên thực dụng mà thôi, có nghĩa là cứ lo học đi rồi sẽ được làm quan và sẽ có ăn. Nên nhớ rằng mục đích của việc học đạo chỉ là để được làm quan. ý Khổng Tử qua câu nói này hoàn toàn không phải là sự chấp nhận nghèo khổ miễn là sống hợp đạo đức. (Cần hiểu chữ đạo của Khổng Tử đồng nghĩa với nghề, nghĩa là học thi, thư, lễ, nhạc cho thạo để ra làm quan chứ không phải là đạo đức như ta hiểu). Chính Khổng Tử cũng rất ham phú quí, ông từng nói phú quí mà cầu được thì dù phải làm kẻ cầm roi đánh xe ngựa ta cũng nhận (phú quí nhi khả cầu dã, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi). Khổng Tử lương thiện nhưng không phải vì thế mà ông đề cao sự nghèo khổ. Ông đã đi khắp nơi cầu được làm quan, có lúc sẵn sàng làm gia nhân cho những kẻ giàu có phản trắc. Nhân sinh quan của ông rất thực dụng: cầu ích lợi cho mình và sống lương thiện. Đó là một nhân sinh quan rất khiêm tốn về mặt đạo đức.
Từ đời nhà Hán, luân lý của Khổng Giáo bị bóp méo đi để biến thành một thứ luân lý nông nghiệp lạc hậu. Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ, sau khi diệt được Tần và Sở, thống nhất thiên hạ, nhận định rằng mối nguy cho dòng họ mình là những kẻ giàu có và gan dạ. Ông bèn xóa bỏ thương nghiệp và chỉ giữ lại nông nghiệp. Việc phân chia xã hội ra bốn giai cấp sĩ, nông, công, thương bắt đầu từ đó. Nếu chỉ xét về mục đích duy trì quyền hành thì nhà Hán hoàn toàn có lý. Nghe nông chân lấm lấy bùn, được mùa thì no, mất mùa thì đói, không thể nào giàu lớn được, gia tài chỉ là ruộng đất, có bao nhiêu triều đình thấy rõ hết. Vả lại, người nông dân ở yên một chỗ, kiến thức hạn hẹp mà đởm lược cũng không có bao nhiêu. Trái lại, người buôn bán giao du nhiều, hiểu biết rộng rãi, lại quen đương đầu với rủi ro thành ra gan dạ (có gan làm giàu). Nghề buôn bán lại dẽ phát đạt, có thể đưa tới những tài sản rất lớn, kín đáo và dễ di chuyển. Những thương nhân giàu có này lại không làm quan ăn lộc vua và do đó không mang ơn vua như lớp nho sĩ, họ có thể là những đe dọa lớn cho các vua chúa. Chính vì thế mà nhà Hán dẹp bỏ thương nghiệp, và khi thương nghiệp đã bị xóa bỏ, sự trao đổi hàng hóa không còn nữa thì công nghiệp chỉ còn là một nghề phụ của nghề nông, làm ra những nhu yếu phẩm cho xóm làng mà thôi. Dưới đời nhà Hán, thương nhân không những bị trù dập thô bạo mà còn bị miệt thị như những kẻ xấu xa, đáng khinh bỉ.
Các triều đại về sau có lúc nới lỏng cho thương nghiệp đôi chút nhưng rời lại xiết lại ngay. Triều đại nào cũng coi thương nghiệp là mối nguy và đều ra sức trù dập và miệt thị. Cuối cùng với thời gian một giá trị mới đã được thêm vào Khổng Giáo, đó là tâm lý khinh bỉ nghe buôn bán. Phải công bình mà nói, tâm lý này hoàn toàn không có trong đầu óc Khổng Tử. Cả Khổng Tử lẫn các môn đệ của ông đầu không bao giờ bài xích thương nghiệp, cũng như Marx không bao giờ tưởng tượng có việc kiểm duyệt báo chí hay những chiến dịch tẩy não, những trại tù cải tạo tư tưởng của các chế độ cộng sản sau này.
Thương nghiệp là động cơ tiến hóa của mọi xã hội. Nó vừa là sự chấp nhận rủi ro cho đổi mới vừa là sự giao lưu của người, của kiến thức, ý kiến và sáng kiến. Nó cũng là sự giàu có. Thương nghiệp đối với xã hội cũng như máu đối với cơ thề, nó là yếu tố tối cần thiết cho mọi sinh hoạt khác, dù là nông nghiệp, cộng nghiệp hay văn hóa xã hội. Có thương nghiệp mới có tiến bộ. Không có thương nghiệp thì xã hội tê liệt và dẫm chân tại chỗ, kể cả về vật chất lấn tinh thần, là lẽ tự nhiên. Trong những yếu tố độc hại của Khổng Giáo, yếu tố độc hại nhất trên hẳn mọi yếu tố khác chính là sự thù ghét thương nghiệp, mà về việc này thì Khổng Tử hoàn toàn vô can. Nó là một phát minh của Hán Nho và được duy trì vì cần thiết cho sự ồn vững của các chế độ quân chủ chuyên chế. Không phải là một sự tình cờ mà các tiến bộ lớn của nhân loại đã phát sinh từ các thị trấn buôn bán và tư tưởng dân chủ cũng như các chế độ dân chủ đầu tiên đã nảy sinh từ đó. Cũng không phải là một sự tình cờ mà Hoa Kỳ, một quốc gia tạp chủng, khởi hành từ số không những có mẫu số chung là business, đá mau chóng trở thành siêu cường số một của thế giới.
Như đã nói, Việt nam vừa hình thành thì đã tiếp thu Khổng Giáo từ đời nhà Hán, nghĩa là khi Khổng học đã bị tồi tệ hóa do sự thêm vào nhiều yếu tố độc hại, trong đó độc hại nhất là tâm lý thù ghét thương nghiệp. Suốt dòng lịch sử, chúng ta đã chỉ biết có tâm lý này, không như người Trung Hoa ít ra đã có một thời Xuân Thu Chiến Quốc trong đó cả một rừng hoa tư tưởng nở rộ và thương nghiệp phát triển mạnh. Chính vì thế mà văn hóa của ta thấp kém hơn văn hóa Trung Quốc. Chính vì thế mà chúng ta dở về buôn bán hơn tất cả mọi quốc gia có cùng một chiều dài lịch sử.
Như một người mù lòa quen với bóng tối, Việt nam cũng như Trung Quốc, nhưng hơn cả trung Quốc, đã thích nghi với sự nghèo khổ và tìm an ủi ngay trong sự nghèo khổ. An bần lạc đạo là một triết lý và một thứ thuốc an thần ru ngủ trí tuệ ta. Đáng lẽ chỉ nên coi sự nghèo khổ là một tình trạng đáng buồn cần chấm dứt, chúng ta coi nó như một sự vinh quang. Đáng lẽ chỉ nên coi người nghèo là những người không may cần được giúp đỡ, ta lại coi họ là những người trong sạch đáng tôn vinh. Tâm lý này lại là tâm lý của kẻ sĩ, nghĩa là thành phần tinh nhuệ nhất, hiểu biết nhất.
Nếu thù ghét thương mại là di sản độc hại nhất của Khổng Giáo thì nó cũng là di sản nặng nề nhất của người Việt, ngay trong lúc này.
Thế hệ của tôi, những người vào đại học trong thập niên 1960, hoàn toàn bị tâm lý trọng sĩ khinh thương chế ngự. Ước mơ của chúng tôi chỉ là đậu cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư để được làm giáo sư giám đốc. Cha mẹ chúng tôi cũng chúc tụng và mơ ước cho chúng tôi tương lai đó. Tâm lý của chúng tôi hoàn toàn là tâm lý kẻ sĩ, nghĩa là tâm lý làm quan hoặc làm công ăn lương, dù chúng tôi chẳng hề học Tứ Thư, Ngũ Kinh bao giờ. Cái tâm lý đó, chúng tôi đã tiếp thu từ sinh hoạt gia đình và xã hội. Và chúng tôi cũng đã được giáo dục ngay tại trường học theo tâm lý đó. Nhưng mẫu người mà chúng tôi được khuyến khích dề noi gương chỉ là những danh tướng, danh thần, những nhà nho liêm chính, những nhà thơ, nhà văn, hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Ngay cả những danh nhân ngoại quốc chúng tôi biết đến cũng chỉ là những ông vua, ông tướng, hay các nhà bác học, các nhà chính trị và các nhà văn lớn chứ hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Doanh nhân là một giống người không ra gì. Chúng tôi đã lớn lên với một hệ thống giá trị như thế. Chúng tôi được đào tạo để làm những con người sống ngoài lề xã hội hay, nếu may mắn hơn, sống trên xã hội chứ không hội nhập và sống trong xã hội. ở vào thế hệ của tôi, và một phần nào đó ngay bây giờ tại Việt nam, học hết tú tài là đã thuộc thành phần tinh nhuệ của xã hội. Tôi may mắn thuộc vào thành phần tinh nhuệ nhất của thành phần tinh nhuệ đó. Bạn bè quen biết của tôi có vài trăm người được đi du học tại châu Âu, Hoa Kỳ, úc, New Zealand và Nhật. Tất cả đều thông minh tuấn tú, tất cả đều đã thành công theo tiêu chuẩn Việt nam, nghĩa là ngày nay chúng tôi đều có văn phòng luật sư, phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, làm giáo sư hay kỹ sư, với một cuộc sống tương đối thoải mái, nhưng doanh nhân thì chỉ có một vài người. Một số kỹ sư, chuyên viên nay đã ngoài năm mươi tuổi, lương quá cao so với yêu cầu của xí nghiệp đang hòi hộp lo âu bị cho nghỉ việc, có những người đã mất việc. Nếu khối sinh lực và trí tuệ đó được dồn vào kinh doanh thì đất nước đã khá hơn biết bao nhiêu, và ngay cả cuộc sống của mỗi chúng tôi cũng khá hơn nhiều. Hơn nữa nghề làm công, hay nghề cá nhân, đã không cho chúng tôi những cơ hội để tiếp xúc và học hỏi, cũng không đặt chúng tôi trước những trách nhiệm quan trọng; kết quả là giờ đây, vào giai đoạn gần chót của sự nghiệp, chúng tôi không những chỉ bình thường về vật chất mà còn kém cỏi cả trong tầm vóc và sự hiểu biết.
Thế hệ chúng tôi đã thừa hưởng một hệ thống giá trị độc hại và đã truyền lại nọc độc cho thế hệ sau. Tôi chưa nhận thấy một chuyển biến tâm lý đáng kể nào trong giới trẻ Việt nam. Phần lớn các con cháu của các bạn tôi đều hướng về những ngành học thuần túy ký thuật, và khi họ có học về doanh thương thì cũng chỉ với tâm lý công nhân mà thôi. Tôi tiếp xúc với nhiều thanh niên và lúc nào cũng hỏi họ dự định thế nào cho tương lai, họ sẽ làm gì ở tuổi bốn mươi. Cho tới nay những câu trả lời của họ cũng không khác bao nhiêu so với thế hệ chúng tôi. Việt nam vẫn còn chờ đợi một chuyển biến tâm lý lớn, dù đã trải qua nhiều xáo trộn khốc liệt. Đó là tôi chỉ gặp một thành phần thanh niên may mắn có cơ hội để tiếp xúc với thế giới tiến bộ bên ngoài, những người lớn lên tại hải ngoại, hoặc những thành phần ưu tú được gởi ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh hay thực tập sinh. Những thanh niên ở Việt nam sang còn cho tôi hay tâm lý của thanh niên trong nước còn trì trệ hơn họ về mặt kinh doanh. Tình trạng này cho thấy ảnh hưởng của một nền văn hóa dai dẳng tới mức nào.
Thế hệ chúng tôi đã thừa hưởng một hệ thống giá trị độc hại và đã truyền lại nọc độc cho thế hệ sau. Tôi chưa nhận thấy một chuyển biến tâm lý đáng kể nào trong giới trẻ Việt nam. Phần lớn các con cháu của các bạn tôi đều hướng về những ngành học thuần túy ký thuật, và khi họ có học về doanh thương thì cũng chỉ với tâm lý công nhân mà thôi. Tôi tiếp xúc với nhiều thanh niên và lúc nào cũng hỏi họ dự định thế nào cho tương lai, họ sẽ làm gì ở tuổi bốn mươi. Cho tới nay những câu trả lời của họ cũng không khác bao nhiêu so với thế hệ chúng tôi. Việt nam vẫn còn chờ đợi một chuyển biến tâm lý lớn, dù đã trải qua nhiều xáo trộn khốc liệt. Đó là tôi chỉ gặp một thành phần thanh niên may mắn có cơ hội để tiếp xúc với thế giới tiến bộ bên ngoài, những người lớn lên tại hải ngoại, hoặc những thành phần ưu tú được gởi ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh hay thực tập sinh. Những thanh niên ở Việt nam sang còn cho tôi hay tâm lý của thanh niên trong nước còn trì trệ hơn họ về mặt kinh doanh. Tình trạng này cho thấy ảnh hưởng của một nền văn hóa dai dẳng tới mức nào.
Chúng ta vẫn còn là những đứa con tinh thần của Khổng Giáo Việt nam một thứ Khổng Giáo đặc biệt tăm tối. Cái văn hóa Khổng Giáo đó đã làm thui chột cả một dân tộc. Nó khiến chúng ta dị ứng thương nghiệp đã đành, nhưng nó cũng gây ra một mặc cảm thấp kém ngay cả trong một số hiếm hoi dám kinh doanh buôn bán. Một người Việt nam hãnh diện với một đứa con tốt nghiệp đại học và lãnh lương vừa đủ sống hơn là một đứa con bán phở với lợi tức gấp bốn, năm lần. Một thương gia giàu có cũng thích gả con gái cho một tiến sĩ hơn là một thương gia trẻ, và cũng rất hài lòng nếu tất cả các con mình trở thành bác sĩ, kỹ sư và bỏ nghề buôn. Họ không thể trở thành những thương gia lớn được bởi vì họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ, và họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ vì thành phần xã hội của họ bị khinh khi. Ngôn ngữ Việt nam không thiếu những danh từ thóa mạ đối với người buôn bán: tên lái buôn, bọn con buôn, bọn hàng tôm hàng cá, v.v:.. Sự khinh bị này đưa tới một hậu quả thực sự là những người buôn bán nhỏ bị co cụm lại thành những nhóm cô lập, hờn giận với phần còn lại của xã hội, rồi cũng mất đi sự tự trọng và cư xử một cách rất thô lỗ trái ngược với tinh thần phải có của thương nghiệp. Kết quả là cả nghề buôn bán lẫn việc buôn bán đều không vươn lên được.
Văn hóa Khổng Giáo Việt nam tạo ra những thành kiến rất sai lầm và bất công đối với các thương gia. Sau khi đậu xong tú tài I tôi được một thương gia giàu có mướn dạy kèm cô con gái vừa lên đệ tứ, tức lớp 9 bây giờ. Những thành kiến sai lầm đã khiến tôi hình dung ông ta là một con người vô học chỉ sống vì đồng tiền, và chắc là giả dối và gian lận. Tôi khám phá ra mình ngu dốt. Hai ông bà vất vả suốt ngày, họ chỉ về nhà vào khoảng 9, 10 giờ tối. Họ bặt thiệp, hiền lành và rất hiểu biết. Tôi nhận ra bà ấy thông minh hơn hẳn các bà mẹ Việt nam khác và ông ấy có kiến thức cao hơn và rộng hơn hẳn những giáo sư của tôi. Ông bà ấy hình như chưa học hết bậc trung học, nhưng họ đã đạt tới trình độ hiểu biết cao nhờ học hỏi trong cuộc sóng, bằng sự giao tiếp trong xã hội và bằng suy tư cá nhân. Cuộc gặp gỡ kéo dài hơn một năm này đã là một may mắn lớn cho tôi. Tôi được một số tiền thù lao khá lớn, đủ sống cho mình mà còn giúp đỡ được cả gia đình; nhưng tôi còn được cả một sự tỉnh ngộ.
Sau khi đi du học về, tôi làm tại Ngân Hàng Việt nam Thương Tín rồi sang Bộ Kinh Tế và lại có dịp gặp gỡ nhiều doanh nhân khác. Ngay khi về Việt nam tôi đã được nghe nhiều huyền thoại về các doanh nhân người Hoa, những Lý Long Thân, Huỳnh Trù, Trần Thành, Trương Đông Lương, v.v... Họ được mô tả là những người giàu sụ, có biệt tài làm ra tiền mặc dầu dốt nát tới độ ký tên mình còn run tay. Sự hiểu ngầm ở đàng sau là họ giàu có nhờ khôn vạt, láu cá, mánh mung.
Điều đáng để ý là thành kiến không tốt đối với các doanh nhân gốc Hoa này không phải chỉ có trong dân chúng và báo chí, mà còn hiện diện ngay cả trong giới chuyên viên tài chánh, đáng lẽ ra phải được giác ngộ về kinh doanh. Hoàn cảnh đã cho tôi cơ hội gặp gỡ với những người này, và tôi nhận ra họ là nhưng con người rất thông minh và ngay thẳng. Không những thế, họ còn có kiến thức rộng rãi về những vấn đề chính trị, văn hóa và xã hội. Trong buổi lễ khánh thanh một nhà máy cán sắt mới của công ty Vicasa, Lý Long Thân, chủ tịch công ty, sắp xếp để tôi ngồi ngay bên cạnh ông, buổi tiệc đã kéo dài hơn thường lệ vì sau cà phê Lý Long Thân còn trò chuyện với tôi hơn hai giờ nữa. Lý Long Thân không cần gì tôi cả, ông ấy chỉ nói chuyện vì gặp người hợp ý mà thôi. Ông ấy kể cho tôi những cuộc gặp gỡ và nhưng câu chuyện giữa ông ấy với các cấp lãnh đạo Việt nam Cộng Hòa và đặc biệt là buổi gặp gỡ một tuần trước đó với đại sứ Mỹ Graham Martin. Lý Long Thân hiểu biết nguy cơ đối với Việt nam Cộng Hòa hơn là các cấp lãnh đạo Việt nam mà tôi thường gặp. Nếu Nguyễn Văn Thiệu thực sự dùng Lý Long Thân làm cố vấn như nhiều lời đồn đại thì có thể Việt nam Cộng Hòa đã may mắn hơn.
Tâm lý bài bác thương nghiệp và tôn vinh sự thanh bạch tạo ra cho người Việt nam một quan hệ bệnh hoạn và tội lỗi đối với tiền bạc. Chúng ta đều biết quyền lực của đồng tiền, câu tục ngữ có tiền mua tiên cũng được không phải mới có. Hai chữ nói lái đầu tiên là tiền đâu cũng không mới. Chúng ta đều cần tiền và muốn có tiền nhưng chúng ta không đám công khai kiếm tiền, chúng ta được giáo dục để coi kiếm tiền như là một sự vẩn đục và chúng ta cố làm ra vẻ khinh thường sự giàu có và hãnh diện với cảnh thanh bần. Chúng ta muốn mà không dám, chúng ta ao ước và giấu giếm như một tiểu thư con nhà gia giáo bề ngoài đề cao tiết hạnh dù trong phòng vắng nhiều đêm cũng trằn trọc mơ ước những giây phút hoan lạc của một cô gái phá lệ. Cả một xã hội sống trong sự giả dối. Tâm lý này tạo ra cả một truyền thống tham nhũng. Thành phần tinh nhuệ đua nhau đi làm quan thay vì làm giàu. Mặt khác, các ông quan thời xưa và các quan chức nhà nước ngày nay không thể sống với đồng lương chật hẹp cho nên phải dựa vào quà cáp, hay phải nhắm mắt để các bà vợ ăn tiền thay mình để giữ được một mức sống đàng hoàng. (Hình như ngày nay đã tiến bộ hơn, các quan chức thẳng thắn đòi tiền hối lộ chứ không cần qua một trung gian nào cả). Chống tham nhũng ở Việt nam rất khó vì chúng ta có cả một văn hóa tham nhũng do truyền thống để lại.
Văn hóa thanh bần của Khổng Giáo cũng đã đem lại cho chúng ta những tai họa về chính trị. Ông Hồ Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm đều được kính trọng vì họ tỏ ra là những người thanh liêm. Họ không có vợ, và điều đó hình như kéo theo hệ luận là họ trong sạch, thanh liêm. Họ được tín nhiệm về đức chứ không phải vì tài và thực sự cả hai đều không có khả năng, cả hai đều thiếu bản lĩnh, đều không nhìn thấy những vấn đề và những giải pháp cho đất nước, nhưng họ đã được văn hóa và tâm lý Việt nam đặt vào vị trí quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai đoạn trọng đại. Ông Hồ Chí Minh được tôn sùng hơn ông Ngô Đình Diệm vì đóng kịch khéo hơn, ông xuất hiện như một nhà nho khổ hạnh, sống suốt đời và tất cả cho dân tộc, trong khi thực ra ông là một người ham thụ hưởng hơn hắn mức trung bình. Cả hai ông, dù đã được ngoại bang nâng đỡ hay đặt để, cũng đã là sản phầm của văn hóa Khổng Giáo. Hai ông không chiếm độc quyền sân khấu chính trị Việt nam nhưng là những nhân vật tiêu biểu nhất. Những người lãnh đạo chính trị khác, khi không hoàn toàn do ngoại bang chọn lựa, cũng giành được địa vị vì những lý do thuần túy thuộc đức . Họ được tiếng là những người, hoặc thanh liêm, hoặc can trường, hoặc có công vì đã vào tù ra khám, chứ hoàn toàn không phải vì họ được nhìn nhận là có khả năng làm cho đất nước giàu có hơn. Kết quả: bốn triệu người chết và một GDP 300 đô la mỗi năm cho mỗi đầu người.
Văn hóa Khổng Giáo còn để lại cho chúng ta một di sản khác là sự vô lễ quá đáng. Mới đây tôi được đọc trên một tờ báo trong nước một bài của nhà văn Trần Mạnh Hảo đả kích một nhà văn khác vừa được giải thưởng văn học. Trước đây tôi đã được biết đến Trần Mạnh Hảo qua tác phẩm Ly Thân và có cảm tình với ông. Sau này tôi lại được nghe những dư luận không tốt về tư cách của ông từ những người mà tôi kính trọng về kiến thức và nhân cách. Tôi vẫn còn phân vân và bài báo của Trần Mạnh Hảo một phần nào đã giải tỏa cho tôi sự phân vân đó. Trần Mạnh Hảo đả kích đoạn của tác phẩm thuật lại chuyện vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Trần Mạnh Hảo hoàn toàn không dựa vào một tài liệu nào cả, nhưng cảm thấy có thể thẳng thắn bác bỏ chuyện của tác giả kia. Tại sao? Chỉ giản dị là tại cách xưng hô. Tác phẩm kia thuật lại những lời đối đáp của viên công sứ Pháp gọi vua Hàm Nghi là ngài, là nhà vua, v.v... Như thế là đủ để Trần Mạnh Hảo quả quyết là tác giả đó đã bịa đặt trắng trợn bởi vì có khi nào một người chiến thắng lại nói với một tù nhân với lời lẽ cung kính như vậy. Trần Mạnh Hảo không hiểu rằng đó là cách đối xử rất tự nhiên và rất bình thường của người phương Tây, bởi vì Trần Mạnh Hảo thuộc văn hóa Việt-Trung, trong đó sự lỗ mãng là một thông lệ. Những ai đọc truyện Tàu và truyện đã sử Việt nam đều đã quá quen với ngôn ngữ xỉ vả và thóa mạ kẻ thù, nhất là kẻ thù sa cơ thất thế (trong các truyện Tàu tôi chỉ thấy thời Tam Quốc có Tào Tháo và Tôn Quyền là đôi khi đối đáp nhã nhặn với người chiến bại). Một chi tiết khác trong bài của Trần Mạnh Hảo là lời lẽ của nó rất gay gắt. Đó cũng là đặc tính chung của phần lớn những bài tranh luận giữa người Việt nam thuộc mọi thế hệ. Hình như chúng ta cảm thấy có bồn phận phải nổi giận khi không đáng.
Nhưng sự lỗ mãng không phải là một nét đặc trưng của riêng văn hóa Khổng Mạnh, mà là của mọi nền văn hóa trong đó thương mại thiếu vắng. Thương mại khiến người ta gặp gỡ nhiều, tiếp xúc rộng và trở thành lịch sự. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm lời lẽ trang nhã để thuyết phục khách hàng. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm hiểu khách hàng, đặt mình vào địa vị khách hàng để cố khám phá khách hàng muốn gì và sau đó để chinh phục cảm tình của khách, để khách mua hàng hóa hay dịch vụ cần dùng nơi mình thay vì nơi một nhà cũng cấp khác. Những người có chút kinh nghiệm về thương mại đều hiểu rằng muốn như thế thì chỉ có một cách là phải rất lương thiện, rất lễ độ và quí mến khách hàng một cách thực sự. Cảm tình và khả tín là hai vốn quí nhất của một doanh nhân. Thiếu hai đức tính đó thì tốt hơn hết là đừng đi vào thương nghiệp, cùng lắm chỉ thành công nhỏ và tạm bợ mà thôi. Chính vì thế mà các dân tộc buôn bán cũng là những dân tộc khả ái nhất.
Đọc một số bài phê phán văn hóa Khổng Giáo của tôi một số thân hữu thường bày tỏ sự lo ngại là nếu không còn Khổng Giáo liệu chúng ta có mất luôn các lễ giáo cỗ truyền của mình không? Xin các bạn yên tâm. Trước hết, chỉ 10 các bạn không bỏ được sớm thôi, từ giã một nền văn hóa khó lắm. Sau đó, chúng ta sẽ lễ độ hơn chứ không mất lễ độ đâu. Một cách không chủ ý nhưng có thực, văn hóa Khổng Giáo, vì loại bỏ thương mại, đã khiến con người trở nên vô lễ. Có những thân hữu khác lại biện luận rằng không nên bài xích Khổng Giáo vì chính nhờ Khổng Giáo mà Việt nam và Trung Quốc đã được ổn định trong hơn hai ngàn năm. Nhưng ổn định nào? ổn định trong sự dậm chân tại chỗ, trong sự nghèo khổ, kìm kẹp và thua kém, có phải là một ổn định đáng mong muốn không? Chúng ta đã là chúng ta ngày hôm nay chính vì chúng ta đã là nạn nhân của sự ổn định đó. Mà thực ra có ổn định gì đâu. Lịch sử Trung Hoa và Việt nam, nhất là Việt nam trong hai mươi thế kỷ Khổng Giáo cho đến thế kỷ 19 đã đấm máu hơn lịch sử của mọi dân tộc khác, với đàn áp thường trực và nỗi loạn triền miên, khi không có chiến tranh với ngoại bang. Các bạn thử đọc lại thật kỹ lịch sử nước ta xem trước khi người Pháp đến, chúng ta có bao nhiêu năm chiến tranh? Các bạn sẽ khám phá ra con số thật kinh khủng và các bạn cũng sẽ thấy rằng con số những năm chiến đấu chống ngoại xâm chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Văn hóa Khổng Giáo do tính bất dung và vô nhân đạo của nó đặt xã hội trong tình thế thù địch thường trực. Cái mà chúng ta gọi là sự ổn định thực ra chỉ là sự trì trệ.
Truyền thống nào cũng có sức mạnh quán tính của nó.
Truyền thống càng dài quán lực càng cao. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu khi phải từ giã một tập quán chúng ta cảm thấy một mất mát lớn, bởi vì các lập quán nằm trong vô thức của chúng ta và gắn bó với cơ thể của chúng ta. Sự nghèo khổ không phải chỉ là một tình trang mà là cả một hệ thống có cả đạo đức, triết lý, sự thỏa mãn và niềm hãnh diện của nó. Thoát ra khỏi sự nghèo khổ không phải là dễ bởi vì chính những người nghèo cảm thấy nếp sống của họ là đúng đắn, không có gì phải thay đổi. Cũng thế, những lập quán tệ hại đến đâu vẫn có cái tiện nghi gớm ghiếc, nhưng có thực, của chúng. Những người chống đối hủ tục bó chân phụ nữ của Trung Hoa không ai khác hơn là chính các phụ nữ Trung Hoa. Nhưng người lúc ban đầu phản đối mạnh nhất chiếc áo dài duyên đáng hiện nay của phụ nữ Việt nam không ai khác hơn là chính các phụ nữ Việt nam. Cũng những phụ nữ Việt nam và Trung Hoa khả kính đã bảo vệ một cách nồng nhiệt nhất tam tòng, tứ đức - và chữ, trinh gớm ghiếc - đã đầy đọa họ trong hàng chục thế kỷ.
Đọc lịch sử Việt nam, có một trang mà chúng ta không thể đọc mà không nhỏ lệ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đã có hàng chục ngàn người dân rất bình thường, chọn lựa đi tới trước đao phủ thay vì từ bỏ lòng tin của mình. Đó là những người Công Giáo dầu tiên của Việt nam, nạn nhân của chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn. Dù chia sẻ hay không tin tín ngưỡng của họ, mọi người Việt nam đều có thể hãnh diện về sự dũng cảm đó. Đối đầu với họ, những người hưởng ứng chính sách cấm đạo và xả thân đi đánh các họ đạo là ai? Đó là những người Văn Thân, Cần Vương, những người cũng đáng quí nhất của dân tộc, nghĩ rằng mình đang hy sinh bảo vệ đất nước của cha ông chống lại một cuộc xâm lăng mới và một tà thuyết mới. Nếu chúng ta, thay vì là một xã hội nông nghiệp khép kín, là một dân tộc có truyền thống thương mại và trao đổi thì phản ứng của chúng ta chắc chắn sẽ không như thế.
Điều mà chúng ta đang cần là một sự mạnh bạo đoạn tuyệt với một tâm lý lỗi thời và dám đổi mới, dám từ bỏ đường xưa lối cũ, dám muốn đi tới những chân trời mới, tìm những thành công thật lớn. Các bạn có thể hỏi tôi, nói lung bung như vậy có ích lợi gì không, có đề nghị cụ thể gì không? Có một đề nghị nhỏ rất dễ làm, mà nếu các bạn cùng làm tôi bảo đảm là chỉ trong vòng một thế hệ đất nước sẽ rất khá. Đề nghị đó như thế này: khi một đứa trẻ ra chào đời các bạn hãy hôn và chúc nó: Con sẽ là doanh nhân, con nhé?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét