Việt Sử Tiêu Án .P03

Việt Sử Tiêu Án
Ngô Thời Sỹ
Vua lại lập 3 bà Hậu nữa. Trước đã lập 6 bà, nay lại lập 3 nữa, cộng là 9 bà. Vua đi xem các núi sông, đến bến đò Cổ Sở, thấy nước sông sáng, trong suốt, cảm động cầm chén rượu rót xuống sông mà nói: "Nếu có vị nhân kiệt anh linh thì nhận tấm lòng thành của ta". Đến đêm có vị chư thần tự xưng là Lý Phục Man trước giúp vua Nam Đế, cho giữ 2
nơi Đỗ Động và Đường Lâm, quân Di và quân Lào không dám phạm vào đất ấy, đến khi chết, Thượng đế khen là trung, lại cho giữ chức cũ, và lại nói: "Thiên hạ gặp buổi loạn lạc, trung thần ẩn dấu họ tên, khi mặt trời, mặt trăng sáng tỏ ở giữa trời (lúc thịnh trị) thì ai cũng trông thấy". Vua thức dậy nói: "Đó là ý thần muốn hiện hình", liền sai người tô tượng mà thờ; đến thời gian Nguyên Phong nhà Trần, quân Nguyên vào cướp, đến địa giới thì ngựa què không đi lên được, người trong thôn ra cự chiến, giặc phải bỏ chạy. Niên hiệu Trùng Hưng, quân Nguyên lại vào cướp, đi đến đâu thì cướp của, đốt nhà, mà ở ấp vẫn như có người phòng thủ, quân giặc không phạm vào được, đúng như lời vị thần nhân đó.

Dân được mùa lớn, một cây lúa 30 bông trị giá 70 đồng tiền.

Vua mới phong các bà tiên tổ làm Hoàng hậu, lập nên lăng tẩm Thiên Đức và Thái Miếu.

Vua làm vua đã 10 năm mới lập Nguyên Miếu, còn kinh thành Thái Miếu thì không thấy chép đến việc thờ tổ tiên báo ơn xưa, thật thờ ơ và chậm trễ quá lắm.

Vua lấy ngày Vua sinh làm ngày tiết Thiên Thành, bãi trò chơi Trúc Sơn.

Trước kia lấy tre làm một trái núi Vạn Thọ Nam Sơn, làm đủ các hình trạng cầm thú kỳ quái, lại cho người bắt chước tiếng cầm thú kêu để làm vui; bấy giờ vì sợ làm phiền phí cho dân, nên bãi trò chơi này đi, chỉ còn đặt ra yến tiệc thôi. Trò chơi Trúc Sơn này khởi thủy từ vua Đại Hành, các đời sau cũng theo làm như thế, vua Thái Tổ biết là vô ích, mà phiền cho dân, nên bãi đi, là phải lắm; đến vua Thái Tôn sao còn giữ lại làm gì?


ĐÁNH NƯỚC ĐẠi NGUYÊN LỊCH

Vì Đại Nguyên Lịch quấy nhiễu ở biên giới nên sai Dực Thánh Vương đánh phá được. Quân đi vào sâu trại Như Hồng trong đất Tống, đốt kho tàng rồi kéo về.

Trại Như Hồng của Tống ở giáp giới Triều Dương của ta, Đại Nguyên Lịch là đất man mọi sau này Nùng Trí Cao tự xưng là Đại Lịch Quốc, tức là chỗ ấy.



LẬP CHÙA CHÂN GIÁO

Vua Thái Tổ tụng kinh ở chùa này, là đạo tràng sáng sủa; vua Huệ Tôn xuất gia ở chùa này, lại là thế giới phiền não, nên chép lên đây là để răn bảo đời sau.

Vua định số quân ra từng giáp, mỗi giáp là 15 người, dùng một người làm quản giáo, rồi lại đổi gọi là Hỏa đầu, làm Chánh thủ, duy con nhà chèo hát thì gọi là quản giáp.

Bấy giờ có con hát là Đào Thị, có tiếng tốt và giỏi tài nghệ, từng được Vua thưởng; người ta mộ dang tiếng thị ấy, phàm con hát đều gọi là Đào nương, bắt đầu từ đây.


THÀY TĂNG VẠN HẠNH CHẾT

Vạn Hạnh vô bệnh mà chết, người đời bấy giờ bảo là ông hóa thân. Vạn Hạnh có bài thơ rằng:

"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô,

Tùy vận thịnh suy hưu bổ úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô"

(Nghĩa là đời người như cái bóng, khi thịnh khi suy, cũng như sương ở trên ngọn cỏ, có rồi lại tiêu tan ngay).

Vua thân đến viếng thăm, lập đàn siêu độ.

Sử thần bàn rằng: Vạn Hạnh có kiến thức cao siêu, thần toán, biết trước mọi việc, cũng là tay xuất sắc trong giới thiền; nhưng mà hay xách ẩn hành quái, chỉ tu luyện về thuật, không tu luyện đạo, tạo ra các câu sấm, lưu truyền làm mê hoặc cho đời, mở mào ác nghiệp cho đời sau. Nhà Phật nói rằng: Hết thảy đều do tâm người tạo nên.

Vạn Hạnh là thủ phạm đấy. Tiền sử chỉ chép là tử, đáng lắm.

Vua Thái Tổ mất ở điện Long An, Thái tử Phật Mã lên ngôi vua. Lúc trước Vua đau mệt lắm, Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương nghe tin, đưa phủ binh vào phục sẵn ở Long Thành, đợi Thái tử đến thì tập kích; Thái tử biết tin nói rằng: "Ta không có điều gì phụ lòng anh em, mà 3 vị vương lại làm điều bất nghĩa, thế làm sao?". Lý Nhân Nghĩa nói: "Anh em phải hiệp mưu với nhau mà chống kẻ bạn nghịch, nếu không thế thì anh em trở nên cựu thù. Tôn xin ra quyết chiến một trận. Trước kia Chu Công và Đường Thái Tôn đều phải bỏ tình yêu riêng, chỉ nghĩ đến công nghĩa, người đời sau vẫn ca tụng việc muốn che giấu việc ấy". Thái tử nói: "Ta há lại không biết thế, nhưng lòng ta muốn che giấu việc xấu, để cho 3 vương phải biết mà lùi đi, cho toàn tình cốt nhục là hơn. Nếu không được thế, thì ta chỉ hầu ở bên linh cửu Tiên đế còn việc ngoài nhất thiết ủy thác cho nhà ngươi". Nhân Nghĩa trả lời: "Chức phận của chúng tôi, đâu dám từ nan", liền cùng Phụng Hiểu rút gươm đi ra, nói rằng: "Việc hôm nay chỉ có thanh kiếm này thôi" rồi xông thẳng đến trước ngựa giết Vũ Đức Vương, quân của 3 vương phủ đều thua chạy, Đông Chinh và Dực Thánh chỉ còn một thân tháo lui. Phụng Hiểu vào báo tiệp, Thái tử úy lạo nói: "Ta xem sử cũ có Kính Đức cứu nạn cho vua, nay thấy ông lại trung và dũng hơn nhiều". Phụng Hiểu thưa: "Đó là Bệ hạ có đức cảm động đến trời, thần thánh lại phù hộ nữa, chứ chúng thần làm gì được". Sau hết 2 vương phải đến phục tội, Vua xuống chiếu tha tội, lại cho phục tước cũ.

Phụng Hiểu là người làng Băng Sơn, Ái Châu, khi nhỏ tuổi hùng dũng, bữa ăn đến vài đấu gạo, sức uống không có chừng. Khi 2 thôn Cổ Bi, Đàm Xá tranh địa giới, đem quân ra tranh nhau, Phụng Hiểu bảo bô lão Cổ Bi rằng: "Một mình ta có thể đánh nổi chúng", liền nhổ cây đánh ngay; Thôn Đàm Xá sợ lắm, phải trả ruộng cho Cổ Bi. Vua Thái Tổ nghe tiếng, triệu vào làm tướng. Đến bây giờ có công dẹp được nạn này, sau lại theo vua Thái Tôn đi đánh giặc miền Nam, khi khải hoàn xét định công, Phụng Hiểu nói: "Không muốn quan tước gì, chỉ xin được đứng trên núi Băng Sơn(3) ném thanh đại đao rơi xuống chỗ nào thì được nhận đến chỗ ấy làm ruộng thế nghiệp" (giữ đời truyền cho con cháu). Vua y cho. Phụng Hiểu lên trên núi ném đại đao đi xa hơn 10 dặm, thanh đại đao rơi xuống đất làng Đa My, lập tức cho ông được nhận ruộng đến chỗ ấy, mà tha không phải nộp thuế, cho nên ở Ái Châu hễ thưởng công thì có tiếng là ném đao.

Lại xét: Trước khi Tam Vương chưa làm phản, một hôm vua nằm mộng thấy vị thần, tự xưng là thần núi Đồng Cổ, bảo Vua rằng Tam Vương sẽ gây ra biến loạn phải đánh bình chóng lên. Đến khi có việc ấy rồi, thì sắc phong vị thần ấy làm tước Vương, lập miếu thờ ở sau chùa Thánh Thọ, phía hữu La thành, là nơi làm lễ minh thệ, đặt đàn ở trong miếu, đọc lời thề ở tước vị thần rằng: "Làm con mà bất hiếu, làm tôi mà bất trung, thì thần giết hại đi". Quần thần từ cửa Đông đi vào, uống máu mà thề, là ngày 25 tháng ấy, sau này hàng năm làm lễ ấy, coi là lễ thường phải làm.

Vua thân đi đánh phủ Trường An.

Xưa kia khai quốc vương là Bồ ở Trường An, cậy có núi sông hiểm trở, tụ tập nhiều kẻ vong mạng, vua Thái Tổ không biết, đến bây giờ đốc xuất quân trong phủ làm phản, Vua phải thân chinh, bọn chúng đầu hàng. Quân Vua đến dưới thành, ra lệnh kẻ nào cướp bóc của dân thì sẽ bị chém đầu, dân chúng dâng trâu bò và rượu chật đường, tuyên chiếu chỉ úy lạo dân, xuống chiếu đưa Khai Quốc Vương về kinh đô Thăng Long, tha tội cho được giữ tước cũ. Quần thần tâu: "Thái tử là căn bản của thiên hạ, xin chọn ngay người hiền đức để yên lòng mong đợi của thiên hạ". Vua gnhe lời, sách phong Hoàng tử Nhật Tôn làm Đông cung Thái tử.

Vua cho Lương Nhận Văn làm chức Thái sư, Đinh Ngô Thượng làm chức Thái phó, Đào Xử Trung làm chức Thái bào; lại đặt ra chức Tả, Hữu khu mật, Tả, Hữu tham tri, và Tả, Hữu phúc tâm. Quan chế triều Lý không thể khảo xét được phẩm cấp thế nào; đại lược chức Tam công chỉ để gia hàm cho các quan, chứ không có chức việc. Những chức việc phải làm thì chia ra: chức quan trong và quan ngoài, quan để cai trị dân là chức quan trong gọi là Phụ Quốc Thái úy, quan làm việc binh là quan ngoài, gọi là Đô Thống Tướng quân; lại còn có chức Thông Phán là quan làm việc cai trị tạp tụng; ở ngoài biên giới cực xa thì đặt ra chức Mục, cũng nhu Phục đạo ngày nay, đều dùng thổ hào làm chức đó. Còn đến tư cách để vào làm quanchức, thì tuyển cử rất cẩn thận rồi mới đến việc dùng con các quan, sau mới đến các người nộp tiền để vào ngạch quan. Con cháu các thợ và kĩ nữ thì không được lục dụng. Còn như họ ngoại về Hoàng hậu, không công gì mà lạm nhận, cũng được có danh hiệu là An Quốc, Khuông Quốc, Phúc Tâm cũng có và danh hiệu Tả Hữu, thì thật là quê kịch, không kê cứu gì. Đặt ra Cấm quân ở trước điện Vua, gọi là các vệ Quảng Thánh, Quang Vũ, Ngự Long, Phủng Nhật và Trừng Hải, mỗi vệ chia ra Tả và Hữu trực, trại quân đóng quanh cả trong Cấm Thành để bảo vệ, tổng cộng gọi là 10 vệ.

Vua lấy ngày Vua sinh làm tiết Thiên Thánh, lại làm ra núi bằng tre (Trúc Sơn), trên núi cắm xen kỳ xí, treo lẫn đò bằng loài kim, cho người con hát ở trong núi đó, đánh xênh, thổi sáo, hát múa cho vui. Mùa đông, Vua làm lễ táng Thọ Lăng ở phủ Thiên Đức, đặt tên là "Thần Vũ Hoàng Đế" miếu hiệu là Thái Tổ. (Vua Thái Tổ có 7 mụn nốt ruồi ở dưới lưng, như hình thất tinh).



Nhà Lý

Thái Tôn Hoàng Đế

Thánh Tôn Hoàng Đế

Nhân Tôn Hoàng Đế



THÁI TÔN HOÀNG ĐẾ

Tên là Phật Mã, con trưởng vua Thái Tổ, ở ngôi 27 năm. Khi sinh ra vua có tướng lạ, lại có nhiều điềm tốt, khi còn nhỏ, bắt lũ trẻ đi dàn hầu ở trước sau, như nghi vệ các quan theo hầu Vua. Thái Tổ trông thấy nói: "Con nhà làm tướng thì nên tập việc quân, dùng gì đến việc dàn hầu ấy". Khi lên ngôi vua, đánh đâu được đấy. Nhưng mà làm việc gì cũng theo lễ, người ta vẫn chê.

Niên hiệu Thiên Thành thứ hai, nhà Tống sai Đồng Dĩnh sang điếu tang và lễ, phong cho vua làm Giao Chỉ Quận Vương.

Vua khởi công làm điện Thiên Khánh, để làm nơi xét chính sự. Định ra mũ, áo cho các công, hầu, văn, võ quan.

Vua đi đến Đỗ Động, cầy tịch điền. Có người nhà nông dâng vua một gốc lúa chiêm có một bẹ sinh ra 9 bông, Vua xuống chiếu cải tên ruộng đó là ứng thiên. Đời nhà Lý rất trọng việc làm ruộng, năm nào Vua cũng có đi xe, cấy, xem gặt, đủ rõ chính thể của nhà Lý.

Vua thân đi đánh, hạ được Đinh Nguyên. Khi kéo quân về đóng ở Chân Đăng, Đào Đại Nương đem tiến người con gái, Vua lấy làm cung phi, rồi cho đi về. Xuất quân ra mà rước con gái về, chả còn oai vũ gì nữa.

Vua xuống chiếu cho quần thần khi nói việc nước trước mặt Vua, thì gọi vua là Triều Đình. Thiên tử tự xưng là Trẫm, là Dư nhất thân, thế mà vua Thái Tôn bắt quần thần gọi mình là Triều Đình, Thánh Tôn tự xưng là Vạn Thặng. Cao Tôn bắt người ta gọi là Phật, danh đã không chính, nên lời nói không thuận. Vua sai sứ sang Tống biếu con voi đã dạy thuần thục, nhà Tống cho giả lại bằng kinh Đại Tạng. Niên hiệu Thông Thụy thứ nhất (bấy giờ có 2 vị sư Nghiêm và Phạm thiêu mình, thành ra thất bảo, xuống chiếu để thất bảo ấy vào chùa thờ cúng, nhân có việc lạ ấy mới đổi niên hiệu) chế ra cái mũ kim bát giác tiêu giao,

(lối chế thế nào không xét đâu được). Khi Vua thân chinh đánh Ái Châu, trong lúc ban yến cho các tướng súy và quan hầu gần ở hành cung, mật chỉ vào Nguyễn Khánh mà bảo phi tần rằng: "Khánh tất làm phản". Phi tần hỏi có gì, vua nói: "Vì y trông thấy trẫm có vẻ mặt hổ thẹn, lời nói và cử chỉ trái khi bình thường, nên biết y có lòng bất trắc". Quả nhiên Phụng Kiền Vương báo tin Khánh mưu phản, phi tần kinh sợ nói: "Đúng như câu thánh nhân biết trước được các việc chưa xảy ra".

Đúc chuông chùa Trùng Quang. Khi đúc xong không cần đến nhân lực, tự nhiên chuông đi đến chùa được.

Phàm các vật hình tròn thì lăn đi được, chuông đi được là vì hình tròn; cây gỗ tròn đẩy đi cũng thế, có gì lạ; việc này cùng việc bụt mọc đều do bọn tăng chúng nó đặt ra đó thôi.

Vua cải tên Hoan Châu là Nghệ An

Vua lập đền thờ Hoằng Thánh Đại Vương.

Vua lấy cớ nha Đô Hộ có nhiều việc án bất ngờ, muốn cho rõ chân tình, vẫn đốt hương kêu cầu, có một đêm nằm mộng thấy vị sứ áo đỏ vâng sắc Thượng đế cho Phạm Cự Lạng làm chủ ngục, và hỏi rằng: "Có phải vị Thái úy của vua Lê Đại Hành đó chăng?". Khi thức dậy, phong Cự Lạng là Vương tước, lập đền ở phía tây nam, tuế thời thờ cúng.

Sử thần bàn rằng: Trong lòng không nghĩ gì mà tự nhiên nằm mộng, mới là chính mộng, lòng mình có nghĩ đến việc ấy, mà hốt nhiên có mộng, gọi là mộng nghĩ ra. Cự Lạng đã nhị tâm trong khi triều đình thay đổi vua, nếu ở nơi âm ty mà bị Đinh Điền và Nguyễn Bặc tố cáo, thì tự mình không trả lời nổi cho mính, còn xét việc án nghi ngờ thế nào được; sắc của Thượng đế, và vị sứ áo đỏ, việc có chăng hay là không có? Mộng của vua Thái Tôn thật không đáng tin, thế mà người đời sau vẫn thờ phụng, thật là mê hoặc.

Vua ta cày tịch điền ở cửa Bố Hải(4), xây đền thờ vua Thần Nông. Người tả hữu Vua nói rằng: "Cầm cái cày đi cày ruộng là việc con nhà nông, Vua không làm việc ấy". Vua nói: "Không làm thì không xướng xuất cho người ta được". Vua đẩy cái cày ba lần ròi thôi. Vua tự làm tướng đi đánh bắt được Nùng Tồn Phúc, duy có vợ nó là A Nùng và con là Trí Cao chạy trốn thoát.

Tồn Phúc là thủ lĩnh đảng Nùng, giết em nó là Tồn Lộc và em vợ là Dương Đạo, thôn tính cả đất, sắm sửa giáp binh, không nộp cống cho triều Lý; đổi châu nó ở gọi là Trường Sinh Quốc. Hà văn trinh tâu rõ tình trạng lên Vua biết, Vua thân hành đánh giặc, khi quân sang đò Lãnh Kinh, có con cá trắng nhảy vào thuyền. Tồn Phúc ẩn nấp ở trong núi và đầm sâu, quân đuổi theo bắt được.

Vua từ Quảng Nguyên ban sư về, xuống chiếu nói: "Từ khi trẫm có đất nước đến giờ, các xứ xa lạ đều xin làm tôi, Tồn Phúc dám đem lòng phản bội, tụ hợp quân ong kiến làm hại dân chúng ngoài biên giới, ta thấy trời đánh kẻ có tội mà bắt được nó". Vừa lúc đó động Vũ Kiến dâng một khối vàng sống, Châu Định Biên nói rằng, ở núi có khí bạc hiện lên, bấy giờ quần thần xin cải niên hiệu là Kiền Phù Hữu Đạo, và tôn hiệu Vua 8 chữ là "Kim dũng ngân sinh, Nùng bình phiên phục". Vua nói: "Đời Đường, Ngu chỉ vẽ cái hình xuống đất mà không ai dám phạm vào, không phải đánh mà khuất phục được quân địch, vì thế nên các ngôi sao không trái phương hướng, mưa to, sét lớn không bị mê muội, có chim phượng hoàng đến chầu, các man mọi theo phong hóa. Trẫm nay tư chất hèn mọn, kém đức, mà ở trên thần dân, có đạo đức gì thấu đến trời đất, mà sánh được với Nghiêu , Thuấn, thế mà giặc Nùng bình được, Chiêm Thành qui phục, trong động sinh ra vàng, dưới đất chảy ra bạc; không biết cớ sao lại được đến thế, hay là trời muốn cảnh báo trẫm đó chăng? Trẫm rất sợ hãi, tấu nghị của các khanh nên bãi bỏ đi". Quần thần cố kêu nài, mới nhận lời.

Vua xuống chiếu lấy gấm (gấm của Tống) đã có sẵn ở Nội phủ ban cho quần thần. Trước vua bắt dạy cung nữ dệt gấm vóc, bây giờ dệt xong, mới đem hết cả gấm Tống ra may áo (quan từ ngũ phẩm trở lên thì được áo gấm, từ cửu phẩm trở lên được áo vóc) tỏ ra là không phải nhà Vua dùng riêng.

Người nước ta ưa chuộng gấm vóc, đồ dùng của người Tàu; mỗi năm có tàu buôn đến, thì hao tổn tiền không biết đâu mà kể; có biết đâu rằng trong đời Hồng Đức những đồ mâm, bát, bình, chén dùng ở trong cung vua, đều là của nước ta chế tạo, không thấy nói lấy đồ của Tàu làm quí. Đồ dùng của nước ta tinh xảo chả kém gì Trung Hoa, cứ cho mẫu mà bảo thợ chế tạo, thì sao lại chả tinh xảo được? Đó là một cách bỏ thói xa xỉ, làm cho nước giàu. Xa nữa thì nên bắt chước vua Lý Thái Tôn, gần thì lấy đời Hồng Đức làm mẫu mực.

Vua xuống chiếu: "Các việc từ tụng trong nước hết thảy ủy cho Khai Hoàng Vương quyết định, lấy điện Quảng Vũ làm nơi xét xử kiện tụng".

Bấy giờ việc hình phục phiền nhiễu, các quan giữ pháp luật chỉ cốt dụng ý thâm độc và khổ khắc, nhiều việc oan uổng vua lấy làm thương đau, sai quan Trung Thư định ra luật lệnh, châm chước vừa phải với thời, chia ra mộn loại, biên thành điều mục, làm riêng hẳn thành hình thư của đời ấy, khi ban hành, dân lấy làm tiện lắm. Từ đấy pháp luật xử kiện rất là minh bạch, mới lấy năm ấy làm niên hiệu Minh Đạo thứ 1, đúc ra đồng tiền Minh Đạo. Vua lại định lệ cho thục tội, những ngưỡi tuổi từ 70, 80 trở xuống, cùng những người tật bệnh yếu đuối, người cư tang từ 1 năm mà có phạm tội thì cho thục tội; duy kẻ phạm vào tội thập ác thì không tha. Đời nhà Chu có hình pháp bát nghị và tam xá. Lời chiếu này của vua Thái Tôn có thể nói là có lòng bất nhẫn; duy Thái tử ở trong cung thì làm Giám quốc, đi ra ngoài là Phủ quân, việc xét tự tụng không phải là chức sự của Thái tử.

Vua cho tô hơn 1000 pho tượng Phật, khánh thành, đặt hội La Hán ở trong sân rồng. Đại xá, tha những người bị tội phát lưu.

Vua xuống chiếu các thứ thuế của dân nộp vào công quỹ 10 phần lấy riêng ra một phần, gọi là hoành đầu, cũng như hiện nay ngoài số thuế có tiền bút chỉ.

Nùng Trí Cao lại chiếm cứ châu Thảng Do, đổi tên châu ấy là Đại Lịch quốc, Vua sai quân đi đánh, bắt sống Trí Cao đưa về kinh đô. Vua thương y có anh và cha đều bị giết, nến tha tội cho y, lại được làm quan ở Quảng Nguyên (nay là Quảng Uyên)(5) như cũ, lại thêm cho các động Lôi Hỏa, Bình An và cho được mang ấn.

Trí Cao là tên gian ác, theo lốt phản bội cũ của cha anh nó, đã tha tội, lại còn cho thêm đất, sự thưởng và phạt thật không có pháp luật gì. Đến lúc nó làm rối ở biên giới, thì lại bảo nó là việt trợ cho nước láng giềng, có khác gì thả con hổ cho cắn người ta, rồi sau lo cứu dần dần; là vì mê đắm về lòng nhân nhỏ mọn của nhà Phật, mà quên mất đại nghĩa làm việc nước đó.

Vua xuống chiếu: "Có người nào ẩn giấu người Đạn Nam thì bị tội".

Triều Lý tra xét số nhân khẩu rất là tường tế, nghiêm ngặt; dân đinh đến 18 tuổi thì biên vào sổ vàng, gọi là hoàng nam, 20 tuổi gọi là đại nam; quan, chức, đô chủ quản, cấm quân, chỉ được nuôi một tên hoàng nam làm đứa ở, nếu có ẩn giấu người đại nam thì quan, chức, đô 3 người ấy bị tội như nhau.

Vua bảo các người tả hữu rằng: "Tiên đế thăng hà đã 16 năm nay, nước Chiêm Thành chưa có cho một sứ thần nào sang nước ta, có phải là oai đức của Trẫm chưa đến nước ấy, hay là chúng ta cậy có núi sông hiểm trở đó chăng?. Quần thần thưa: "Đức tuy đã có đến chúng mà oai chưa được rộng". Vua cho là phải.

Vua xuống chiếu đóng tàu chiến tên là Long, Phụng, Ngư, Xá; gặp lúc ấy cái thuẫn (lá chẵn) của vua ở điện Trường Xuân tự nhiên rung động, Vua mới xuống chiếu cho quần thần hội bàn, đều nói: "Cái thuẫn là binh khí, chim loan bay lượn trước khi có gió, đá đổ mồ hôi trước khi có mưa. Nay sắp đánh Chiêm Thành mà cái thuẫn tự động trước, đó là thần và người hợp ý nhau, nên vật loại tương ứng như thế, chả còn nghi ngờ gì nữa". Vì thế Vua chinh đi đánh Chiêm Thành, quân đóng ở cửa biển Đại Ác sóng gió im lặng, quân đi qua cửa biển được thuận lợi, Vua xuống chiếu đổi cửa biển ấy làm cửa Đại An. Đi đến núi Mi Cô, có đám mây đỏ nâng đỡ mặt trời, đi qua vịnh Hà Não, có đám mây che trên thuyền ngự. Trong ngày ấy nhờ có gió vượt qua được 2 bãi cát dài, đi thẳng đến cửa biển Tư Dung (có tên là Ô Long, thuộc huyện Hương Trà, đất Thuận Hóa, eo biển hiểm ác, núi non khuất khúc, rất cao. Vua Trần Nhân Tôn gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm, thuyền đậu ở đó, nhân thế đổi tên gọi là Tư Dung. Sau Mạc Đăng Dung lấy cớ đồng âm với tên y, lại cải tên là Tư Khách, cửa đó tức là cửa Thuận An ngày nay), có con cá trắng nhảy vào thuyền ngự. Được tin Chiêm Thành bầy trận voi ở nam ngạn sông Ngũ Bồ, Vua sai bỏ thuyền lên bộ mà đánh, quân Chiêm tan vỡ, Quách Gia Di chém vua nó là Xạ Đẩu đem dâng, vua kéo quân vào thành Phật Thệ, bắt cung nữ của Xạ Đẩu, kén lấy người nào giỏi hát và biết múa điệu khúc Tây thiên. Quân về đến Lý Nhân, triệu Mị Ê là vợ Xạ Đẩu lên hầu Vua. Mị Ê từ chối nói: "Tôi là đàn bà quê, vợ tên mán mọi, không được bằng Cơ Khương, gặp buổi nước mất, chồng chết, tự phận chỉ còn một cái chết nữa thôi". Lập tức lấy chăn quấn mình rồi nhảy xuống nước mà chết. Vua khen là người trinh tiết, phong cho làm Hiệp chính Hựu thiện phu nhân (cư dân ở nơi bà ấy chết, cứ đêm nghe có tiếng khóc ở bên sông, ngày một thấy rõ linh ứng, mới lập đền thờ ở nơi ấy). Vua về đến kinh đô đem tin thắng trận cáo Thái miếu, ban tiệc rượu thưởng công. Quần thần dâng tôn hiệu lên Vua, và xin đổi niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ. Mùa đông năm ấy lại được mùa lớn, Vua xuống chiếu nói: "Vì đưa quân đi đánh nơi xa, làm ngăn trở việc nhà nông, có ngờ đâu lại được mùa lớn. Vậy tha cho dân một nữa thuế phải nộp, để vui lòng những người lặn lội xa xôi".

Vua cho đặt ra nhà trạm Hoài Viễn ở bờ sông Gia Lâm, để làm nơi nghỉ cho sứ thần ngoại quốc (tức nhà sứ thần quán Gia Quát ngày nay).

Vua sai chế ra cái xe Thái Bình, sơn thếp bằng vàng mui xe lợp lụa bắt voi kéo.

Vua sai Phùng Trí Năng đi đánh Ai Lao.

Tổ tiên Ai Lao là người đàn bà, tên là Sa Đài, trên núi Lào, lội xuống nước bắt cá, xúc chạm vào cây gỗ chìm, rồi có mang thai, sinh ra con trai, sau cây chìm đó hóa ra con rồng ra sông. Nhân vì con rồng liếm vào lưng con trai ấy, người trong bộ lạc đều nhấn vẽ vào thân, giống như áo vẽ rồng. Đời Vĩnh Bình nhà Hán, vua nước ấy là Hiền Lật Liễu Báo, xin phụ thuộc vào Trung Quốc, bấy giờ mới thông hiếu với nước Tầu. Vua Minh Đế đặt đất ấy làm 2 huyện Ai Lao và Bác Nam (tức là Vân Nam). Đất đó có rất nhiều bộ lạc, đều gọi là Lào. Tục xứ đó lấy vải quấn quanh mình, rồi vào chùa để tránh quân thù, không có chữ nghĩa, chỉ lấy lá cây ghi các việc.

Nùng Trí Cao chiếm cứ động Vật Ác làm phản, vua đánh không được.

Trí Cao chiếm cứ châu An Đức, tiếm xưng là Nam Thiên Quốc, đổi niên hiệu là Cảnh Thụy, liền đến cướp Ung Châu của nhà Tống, bắt được người Tống và Nghiên Mân, được biết hư thật của Trung Quốc. Mân bảo Trí Cao xin nội thuộc Tống, dâng biểu cống các sản vật, khi bấy giờ Tống đương hòa thuận với nước ta, lấy cớ Quảng Uyên là đất thuộc nước ta, từ khước không nhận. Trí Cao bên ngoài thì xin nội thuộc Tống không được, nói đổ là bị nước ta đánh riết, nhân thế đem đồ đảng mưu cướp đất biên giới Tống. Một hôm y đốt hết sào huyệt, nói dối dân chúng rằng: "Của chức góp bao lâu nay, bị trời đốt hết, không còn gì để sống nữa, cùng kế lắm rồi, phải đánh lấy Châu Ung nước Tàu mà làm vua". Nói rồi y liền đốc xuất quân đánh Ung Châu. Trí Cao chỉ muốn làm thuộc quốc của Tống, để chống cự nước ta; đến khi quẫn bách quá, lại sinh lòng cắn trộm để cầu may. Lấy được Ung Châu rồi, tiếm xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Khải Lịch. Đất biên giới Tống được hưởng thái bình đã lâu, không phòng bị gì, cho nên Trí Cao đánh một trận đã được to, đến đâu cũng đều đắc chí; người Tống lo lắm. Địch Thanh khảng khái xin đánh, vua Tống cho làm Tuyên Huy sứ, nhậnt tiết việc đi đánh. Trí Cao cự chiến bị thua, mới đốt thành, đương đêm trốn chạy sang phủ Đại Lý, quan ở phủ Đại Lý chém đầu Trí Cao đóng hòm dâng lên vua Tống. Họ Nùng tuyệt diệt. Trước vua Lý xin với Tống đem quân trợ chiến, vua Tống đã cho. Địch Thanh nói: "Nhờ quân nước ngoài để trừ nạn trong nước, không phải là kế hay. Có một Trí Cao, mà hai tỉnh Quảng không đủ lực đánh nổi phải nhờ quân nước ngoài, nếu nước ngoài ấy lại làm phản thì lấy gì chống đỡ?". Vua Tống xuống chiếu đình chỉ viện binh của nước ta. Đến khi Trí Cao bại, mẹ nó là A Nùng lại thu nhặt dư chúng vào cướp, nhà Tống sai Duy Tĩnh đánh úp giết được, từ đấy hai động Vật Ác và Vật Dương lại thuộc vào Tống.

Vua sai đặt ra đàn Xã tắc, để 4 mùa cúng tế cầu cho được mùa.

Vua đặt ra tùy xa Long Quân (đạo Long Quân theo xe vua).

Vua sai đặt cái chuông lớn ở sân rồng; dân có sự oan ức gì thì đánh chuông ấy lên, để thấu đến tai vua.

Có con rồng vàng hiện ra ở Thụy Minh Các, quần thần đến mừng Vua, thầy Tặng Pháp Ngữ nói:

"Rồng thì bay ở trên trời, nay hiện ra ở dưới là bất thường".

Nhà Lý rất thích điềm tốt lành, cho nên quần thần đời ấy chiều chuộng phùng nghinh; có một con thú lạ, bảo là con lân, thì vẽ vời cho rõ ra lân; một cây cỏ lạ, bảo là cỏ chi, lại vẽ vời cho thành ra cỏ chi. Xem sử một đời vua Thái Tôn, thấy chép có vị Phật Quang, chép thần hiện ra, chép có hoa ưu đàm nở, và chép mưa ra thóc ở thềm điện, còn nhiều hơn nữa. Nếu có Pháp Ngữ thường luôn ở đó, tất không có các điều ấy.

Vua mất, miếu hiệu là Thái Tôn, Thái tử lên nối ngôi vua, cải niên hiệu là Long Thụy thứ nhất.



THÁNH TÔN HOÀNG ĐẾ

Vua tên là Nhật Tôn, là con trưởng của vua Thái Tôn, ở ngôi vua 17 năm.

Vua khéo cư xử, nối được nghiệp, đáng gọi là vị vua tốt, nhưng có việc xây tháp Báo Thiên làm mệt sức dân, làm cung Dâm Đàm phao phí của dân, đó là điều sở đoản.

Niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ hai, mùa đông rét lắm, Vua bảo người chung quanh rằng:

"Trẫm ở thâm cung, đốt than, mặc hồ cừu mà còn rét khổ đến thế này, nghĩ đến tù nhân ở trong ngục thất, bị gió rét thế nào. Vậy bắt phải cung cấp cho đủ chăn chiếu và đồ ăn uống".

Sử thần bàn rằng: Vua Thánh Tôn ở đông cung 27 năm, biết hầu hết những sự khổ sở của người ta, ẩn tình ở dân gian, đến khi lên làm vua, nhân có rét mướt mà thương kẻ tù giam, suy lòng yêu con mà xét đến các việc án oan uổng (Vua ngồi ở điện xử án, công chúa hầu ở bên, Vua chỉ bảo quan coi việc án rằng: "Ta suy lòng yêu con ta, để làm cha mẹ dân, người dân không hiểu biết, thì nên khoan tha cho". Khuyên dân làm ruộng trồng dâu, chẩn cấp kẻ bần cùng, chấn chỉnh việc văn, xét duyệt võ bị, các chính sự tốt, trong sử chép luôn luôn. Vua tôi thân yêu nhau, không có sự cách biệt, cho nên thông hiểu dân tình, không bị ai che lấp, thật là hiền quân đời Lý, cũng là do vua Thái Tôn dạy con có phương pháp đó.

Vua sai xây tháp Báo Thiên 12 tầng, cao vài mươi trượng (có tên gọi là Đại thắng tư thiên bảo tháp, tục truyền: An Nam tứ khí, là tháp Báo Thiên, Chùa Quỳnh Lâm, cái vạc Phổ Minh, chuông chùa Quy Điền).

Vua ra lệnh các quan vào chầu phải đội mũ bộc đầu, đi giày da (vào triều đội mũ đi giày từ đây).

Vua định quân hiệu, gọi là: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điệp, Phủng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, và Vạn Tiệp, quân lính đều thích vào trán chữ Thiên tử quân.

Chế độ binh lính của nhà Lý đại lược theo quân Phủ vệ của nhà Đường, quân Cấm sương của nhà Tống, mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết hạn canh lại về quê làm ruộng, quan không phải cấp lương, duy có người trưởng cấm quân theo hầu chực tức vệ, được cấp cho 10 bó lúa, 1 tấm vải, cho ăn gọi là đại hòa, cấp cho lúa mạch gọi là chiêm mễ. Không có phí tổn nuôi lính, mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay.

Tuổi Vua đã cao (40 tuổi), mà chưa có con, nhân đi du quan đến làng Thượng Lỗi(6), thấy một người con gái hái dâu đứng nấp trong đám cỏ gianh, lấy về làm vợ, đặt tên là Ỷ Lan phu nhân, đến chùa hành hương, có mang sinh ra Kiên Đức (có thuật đầu thai thác hóa của Nguyễn Bông).

Vua cấp bổng liền cho quan Sĩ sư Ngụy Trọng Hòa, Đặng Thế Tư và các ngục lại, để nuôi lòng liêm khiết.

Sử thần bàn rằng: "Dương Chấn từ khước vàng, Ôn Tẩu từ chối tiền, người đời có mấy người được như thế. Nếu không được thế, thì nghèo túng tất sinh lòng tham, cũng là thường tình, mà cho ra làm việc dân, đó là cho lăng chăn dê, đưa vịt nuôi chim ưng. Kinh Thư có câu: "Có được giàu mới cho làm quan, cho nên rút bớt số quan mà cho có lương bổng là việc cần lắm".

Chân Dăng dâng con voi trắng, Vua cho là điềm tốt, cải niên hiệu là Thiên Huống Bảo tượng. Xưa kia vua Hiếu Tĩnh nhà Nguyên Ngụy bắt được con voi lớn ở Nam Duyện, thì đổi niên hiệu là Thiên Tượng, ngày nay niên hiệu Bảo Tượng của Thánh Tôn cũng giống như thế; cái bệnh thích điềm tốt đến thế đó.

Vua thân đi đánh nước Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ giải về. Chế Củ xin đem đất ba châu: Địa Lí (nay là Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình), Ma Lệnh (nay là Minh Linh, tỉnh Quảng Bình), để chuộc tội, Vua tha Chế Củ được về nước. Vua đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, nghe tin bà Nguyễn Phi giúp việc trong cung cấm, mà lòng dân hòa vui, liền nói rằng: "Một người đàn bà mà làm được như thế, đánh Chiêm Thành mà không hạ được, thì bọn con trai ta dùng làm gì được". Lại đi đánh nữa, mới thu phục được.

Vua sai sửa sang Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử và Chu Công, thờ cúng đủ bốn mùa.

Có nước đã ba triều vua, mới sửa sang nhà học, chỉ cần có tượng Phật và kinh Phật thôi.

Vua mất, miếu hiệu là Thánh Tôn. Thái tử lên nối ngôi vua, mới 7 tuổi, mẹ đẻ là Ỷ Lan Lê Thị.



NHÂN TÔN HOÀNG ĐẾ

Tên là Kiên Đức, con trưởng vua Thái Tôn, làm vua được 56 năm. Trong đời vua nước lớn phải kiêng sợ, nước nhỏ mến phục, thần thì giúp, người vui theo, đời được thái bình, có thể khen là vị vua tốt, tiếc rằng tôn sùng đạo Phật và thích điềm tốt quá lắm, là điều đáng chê trách.

Niên hiệu Thái Ninh thứ hai, Hoàng thái hậu là Dương Thị cùng dự việc chính trị giúp Vua; mẹ đẻ Vua là Lê Thị kêu ca với vua rằng: "Mẹ già sinh dưỡng khó nhọc, mới được có bấy giờ, mà người khác được hưởng phú quí, vậy xử trí cho mẹ già sao đây". Vua còn nhỏ tuổi không biết xét đoán ra sao, liền ép bà Hoàng thái hậu phải chết theo vua Thánh Tôn.

Quan Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị Đại phu ra trấn Nghệ An.

Con chim sẻ trắng đậu ở sân cung cấm.

Tiền Lý thích điềm tốt thành bệnh nghiện, ai ai cũng xu my như điên, con qui, con hươu cũng tự cho là điềm tốt, giống gì cũng đều là điềm tốt cả. Khảo cứu một bộ sử triều Lý, cả trước sau gần 50 lần chép tường thụy, lớn nhỏ gần 30 chục bài chép về việc Phật, việc tầm thường nhỏ mọn chả có gì đáng là điềm tốt, thuyết không hư tịch diệt chả đáng giáo lý, không quan hệ gì đến chính trị, lại còn làm hại luân thường, tên các người quê hèn, đàn bà hóa, các việc tắm bụi, nuôi sư, nhất nhất chép cả vào sử, cách chép sử như thế đó sao? Than ôi! Nói về tường thụy bắt đầu từ khi có con sẻ trắng, rồi lại đến truyện con sẻ trắng là hết đời, vậy thì chép con sẻ trắng đó, gọi là yêu quái cũng được.

Vua cho các công thần đến 80 tuổi thì cho được chống gậy và ngồi ghế ở trong triều đình.

Vua mới tuyển các người minh kinh và bác học, lại thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh (người làng Đông Cứu, huyện Gia Định)(7) được dự tuyển, được tiến vào chầu Vua giảng học.

Vua sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản lạnh 10 vạn quân chia làm 3 đạo sang xâm lấn đất Tống (1 đạo đi từ Quảng Châu, 1 đạo đi từ Khâm Châu và 1 đạo đi từ Côn Luân). Khi bấy giờ nhà Tống dùng Vương Anh Thạch, là người thích cầu công ở biên giới, quan Tri Châu Ung là Thẩm Khởi theo ý An Thạch, lập mưu xâm lấn đất nước ta, muốn kiếm chuyện để lấy cớ mà dụng binh, mới cấm các châu huyện không được buôn bán với dân ta. Vua ta giận lắm, xuống chiếu cho Lý Thường Kiệt đưa quân đánh hãm Khâm Châu và Liêm. Quan Đô giám Quảng Tây, nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu viện, Thường Kiệt đón đánh ở Côn Luân, chém Thủ Tiết tại trận. Tôn Đản tiến quân lên vây Ung Châu, quan Tri châu là Tôn Giàm hết sức cố giữ thành, quân ta lấy túi chứa đất xếp đống ở chân thành mà trèo lên, Giàm phải tự đốt mà chết, thành bị hãm, (Giàm bắt 36 người nhà y đều chết trước, cho xác chết xuống cả một hố, rồi mới tự đốt mình, người trong thành cảm nghĩa khí của Giàm, không một người nào chịu hàng, chết gần 10 vạn người, nhà Tống truy tặng cho Giàm là Trung dũng). Thường Kiệt thắng trận, ra tờ bố cáo nói: "Vì nghe Tống thi hành phương pháp "Tham miêu" làm khổ cho dân, nên ta phải ra quân, là muốn cứu vớt dân". An Thạch thấy thế càng giận lắm, cho Triệu Cao làm Chiêu Thái sứ, cho Quách Quỳ là người lão luyện về công việc ở biên giới, làm phó sứ, hiệp cùng nước Chiêm Thành và Chân Lạp đếm xâm lấn đất nước ta. Thường Kiệt đón đánh tan ở sông Như Nguyệt, Quách Quỳ phải rút lui, lại lấy mất các châu Quảng Nguyên của ta, vua ta sai Đào Tôn Nguyên ra đưa con voi đã dạy thuần rồi cho nhà Tống, để xin lại đất Quảng Nguyên và dân mà Tống đã dắt voi về. Nhà Tống hẹn với nước ta nếu trả lại hơn nghìn dân Châu Ung đã bắt làm tù binh, thì sẽ trả hết đất ở địa giới nước ta, Vua ta ra lệnh chỉ trả độ 200 người, trai thì thích vào trán chữ "Thiên tử binh" gái thì thích vào tay tả chữ "quan khách" cho xuống thuyền chở đi, lấy đất trát kín cả các cửa sổ, trong thuyền đốt nến, làm cho không biết rõ lúc nào là ngày và đêm, đưa đi đường biển, vài tháng mới về đến nơi. Người Tống giận việc đó lắm, nhưng đã trót hẹn, nên giả 4 châu về cho nước ta.

Nhà Tống lấy được châu Quảng Nguyên, đổi tên là Thuận Châu, cho Đào Bật làm Tri châu. Bật bị chết ngay. Quan quân cũng có nhiều người chết vì chướng khí, nên Tống chán lắm, khi ấy nước ta trả lại tù binh châu Ung và Liêm nên cùng giả đất lại cho nước ta. Tống có câu thơ: "Vì tham voi Giao Chỉ, để mất vàng Quảng Nguyên" là chỉ vào việc biếu voi để xin lại đất này đó.

Tương truyền: Khi Thường Kiệt đánh Tống, cắm trại dựa theo sông Như Nguyệt, có một đêm nghe có tiếng đọc to rằng: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư". Có 2 anh em tướng quân họ Trương, một người tên là Hống, một người tên là Hát đều là danh tướng của Triệu Việt Vương, sau khi mất thường có linh ứng, các triều trước phong cho vương tước. Lúc ấy có công lui được quân Tống, vua Lý phong cho một vị là Khước Dịch Đại Vương đền thờ ở sông Long Nhỡn Tam ký, một vị là Cảm

Linh Đại Vương, đền thờ ở sông Như Nguyệt. Sử thần bàn rằng: Nước ta đánh nhau với quân nước Trung Hoa nhiều lần, từ vua Nam Đế trở về trước, việc đã lâu rồi, sau này vua Ngô Tiên Chúa đánh Bạch Đằng, vua Lê Đại Hành đánh trận Lạng Sơn, vua Trần Nhân Tôn đánh đuổi được Toa Đô, Thoát Hoan, những trận được vẻ vang đó là câu chuyện hãnh diện của nước ta, nhưng đều là giặc đến đất nước, bất đắc dĩ mà phải ứng chiến. Còn đến đường đường chính chính đem quân vào nước người, khi đánh không ai địch nổi, khi kéo quân về không ai dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm này thật là đệ nhất võ công, từ đấy người nước Tầu không dám coi thường chúng ta, đến những đồ cống, hình thức thơ từ, không dám hà trách, chỉ sợ lại sinh ra hiềm khích. Đến thơ từ của nước ta đưa cho Trung Hoa chỉ dùng có hai tấm ván sơn đen, liệt tên vài vị đại thần dùng ấn tín Trung thư môn hạ mà đóng vào, thế thì triều Lý được trịch với Tống nhiều lắm.

Quan Thái sư Lý Đạo Thành mất. Khi trước bà Thái hậu Linh nhân tham dự việc triều đình, Lý Thượng Cát cậy là quan Ngự vũ cùng tham dự chính sự, Đạo Thành không hợp ý với Thượng Cát, liền xin bổ ra làm quan ngoài; Đến khi ông lại vào phụ chánh, kết sức trù hoạch, được nhiều điều bổ ích cho việc trong triều và ngoài biên giới. Nay ông mất đi, ai cũng tiếc.

Lê Văn Thịnh đi sang triều đình Tống bàn việc cương giới. Văn Thịnh đi đến Quảng Tây, hội nghị với Thành Trác triều Tống, việc gì cũng ủy khúc, không có biện bạch, lấy lý giải quyết dần, có câu nói bồi thần tranh chấp, vua Tống khen là cung thuận, ban cho áo và đai, nhân thế giả cho nước ta Bảo Lạc 6 huyện Túc Tang 6 động. Văn Thịnh thung dung chu toàn, không cần phí lời, mà làm vua Tống phải khen, giả cho 6 huyện đã bị xâm chiếm, thật là vị sứ thần giỏi.

Vua cho thì các người có văn học trong thiên hạ, để xung vào làm quan viện Hàn lâm, Mạc

Hiển Tích được trúng tuyển, vua xuống chiếu cử ông làm chức Học sĩ.

Vua lập nên Bí Thư Các và định ra việc thu thuế, mỗi mẫu 3 thăng lúa, để cấp lương cho quân. Lê Văn Thịnh mưu làm phản, bị an trí ở Thao Giang. Văn Thịnh có người thầy tớ là người nước Đại Lý, biết biến hóa kỳ thuật; khi ấy ông làm chức Tam công cầm quyền chính trong nước, liền manh tâm khởi loạn, gặp khi Vua đi chơi hồ Dâm Đàm (Tây hồ), ngự trên thuyền xem cá, hốt nhiên khởi lên đám mây đen, trong đám tối mờ nghe có tiếng chèo thuyền rẽ nước đến gần thuyền Vua, Vua lấy cây giao ném, chốc lát đám mây đen tan mất, trong thuyền thấy có con hổ, người đánh cá là Mục Thận lấy lưới vung ra chụp lên con hổ, thì là quan Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua lấy cớ Thịnh là đại thần có công giúp nước, không nỡ giết, chỉ đem đày ở đầu trại Thao Giang(8) thôi.

Thái hậu phát tiền ở nội phủ chuộc con gái nghèo đem thân cầm bán, về gả cho người hóa vợ.

Khi Thái hậu giữ triều chính, thị nữ có tội gì mà bị giết, việc ấy còn nhẫn tâm làm được, nay mới xám hối làm phúc thì muộn lắm rồi.

Lý Giác ở Diễn Châu biết thuật lạ, có thể biến cây cỏ thành người, âm mưu khởi loạn, vua sai Lý Thường Kiệt đi đánh, Giác chạy sang Chiêm Thành, nói cho biết hết hư thực trong nước, vua Chiêm là Chế Ma Na nhân thế vào cướp nước ta, lấy lại được 3 châu Địa Lý mà Chế Củ đã dâng khi trước.

Thường Kiệt đánh được quân Chiêm, người Chiêm lại phải nộp giả lại đất ấy.

Lý Thường Kiệt mất.

Thường Kiệt là tướng tài, nhiều mưu lược lúc nhỏ vì có tướng mạo xinh đẹp, tự thiến, để vào làm Hoàng môn chí hậu, đánh bại được quân Tống, bình được giặc Chiêm, danh vọng, công danh ngày thêm trọng.

Vua đắp đê Cơ Xá.

Vua kén chọn con tôn thất làm con thừa tự. Vua đã cao tuổi, chưa có con thừa tự, nên lập nhiều bà Hậu, làm đàn chay cầu đảo; đến bấy giờ em vua là Sùng Hiền Hầu sinh ra con trai là Dương Úc nuôi ở trong cung, mới 2 tuổi mà thông minh lanh lẹ, Vua rất yêu, xuống chiếu cho lập Dương Úc làm Thái tử. Phu nhân Sùng Hiền có mang thai, vừa lúc vị sư Từ Đạo Hạnh ở núi Thạch Thất đến chơi nhà, nói chuyện về việc cầu tự, vị sư hẹn rằng đến khi sinh tất phải bảo ông trước, đến lúc khó sinh, Sùng Hiền Hầu nhớ tới lời vị sư, sai người đến bảo, vị sư lập tức tắm rửa thay quần áo vào trong chùa Thi Giả mà mất, phu nhân liền sinh con trai, tức là Dương Úc. Núi Thạch Thất ở làng Lật Sài, huyện Yên Sơn(9), cao nhọn xinh đẹp, mọc ở giữa đất bằng. Trong sơn động có vết đầu, lốt chân in vào đá, hình giống vẩy rồng, người ta nói đó là nơi thi giả. Người làng lấy làm lạ, để thây vào trong khám mà thờ, hàng năm cứ ngày 7 tháng 3 là ngày đại hội của xứ ấy, đến năm Vĩnh Lạc, người Minh đốt xác ấy đi, người làng ấy mới tô tượng thờ ngang với vua Thần Tôn. Trong năm Quang Thuận đời Lê, vua sai Nguyễn Đức Trinh cầu tự ở trong động, có điềm lạ là phiến đá bay đến, mang về dâng vua, bà Trường Tạc Thái hậu nằm mộng thấy con rồng vàng chui vào hông phía hữu, rồi sinh ra vua Hiến Tôn, từ đấy mà đi hiển hiện nhiều sự anh linh.

Dã sử nói: Đạo Hạnh là con Từ Vinh, nhà ấy có tiếng là pháp thuật, chứ không phải là cao tăng; xem ngay việc thì giải đầu thai, là chuyện quái lạ, còn cao tăng thì trong lòng sáng suốt, thấy rõ tình lý, tất không đưa pháp thuật làm mê hoặc người ta. Chép sử thì phải bỏ hết sự quái dị, mà chỉ giữ lấy việc thường có, cũng không nên đưa câu chuyện thần quái làm mê hoặc đời.

Thời bấy giờ dân lưu vong ở kinh đô hay ở quê phần nhiều làm nghề trộm trâu bò, nên dân gian cùng quẫn, vài nhà cày chung một con trâu,Vua ra lệnh cấm giết trâu, ai giết một con trâu phải tội 80 trượng.

Vua đi chơi Ứng Phong, xem dân cày ruộng công. Mùa thu năm ấy được mùa, Vua lại đi xem dân gặt lúa.

Bà Ỷ Lan Thái hậu mất, hỏa táng ở Thọ Lăng.

Vua ra lệnh kén chọn hoàng nam người nào khoẻ mạnh xung vào số lính Ngọc giai Hưng thánh.

Vua sai đóng 2 thuyền Cảnh Hưng và Thanh Lan, tập tàu chiến, sửa sang áo giáp và binh khí, vua thân hành đi đánh động Ma Sa. Xuống chiếu nói: "Trẫm nhận lấy cơ nghiệp của tổ tiên, thống trị dân đen, coi dân nào cũng như con đỏ, nên nước khác mến lòng nhân mà quì phục. Dân thần của ta, thế mà tên tù trưởng ấy bỏ cả tuế cống, bất đắc dĩ trẫm phải thân đánh. Vậy lục quân, phải nghe mệnh lệnh của trẫm". Bấy giờ bắt đầu từ Thiên Thu Bộ kéo quân đi; sĩ khí hăng hái lên trăm phần, đánh phá được Ma Sa, bắt tên tù trưởng là Ngụy Phang, rồi hạ lệnh chiêu dụ nhân dân cho về an nghiệp. Khi quân về, khao tướng sĩ, quần thần xin dâng tôn hiệu, đổi niên hiệu là Thiên Phù Duệ Vũ.

Vua cấm dân không được lấy gậy tre, gỗ nhọn đánh nhau.

Vua ra lệnh bắt kẻ trốn tránh, (người đi bắt giữ lại ở nhà riêng, không báo cho quan thì phạt 80 trượng. Các thế gia cướp đoạt kẻ bắt được ấy để làm đứa ở riêng cho mình, thì tội cũng đồng thế). Vua cho chế ra cái ô đi mưa cán không thẳng. Vua cấm không được giết trâu. Trong tờ chiếu nói: "Con trâu là vật hệ trọng cho sự cày cấy, làm lợi cho người không phải ít, mà dám giết để ăn thịt là phải tội".

Nhà Tống trả tên thổ tù làm phản là Mạc Hiền về cho nước ta. Khi ấy Lê Bá Ngọc đánh Quảng Nguyên, bọn phản loạn Mạc Hiền 7 tên trốn vào đất Tống, vua đưa thư sang nhà Tống, nên nhà Tống nghiêm sức bắt trả cho nước ta.

Vua xuống chiếu: phàm đánh người ta đến chết, thì phải tội 100 trượng.

Vua cấm dân gian trong mùa xuân không được chặt cây.

Vua sai Nghiêm Thường sang Tống tạ ân (tạ việc bắt trả Mạc Hiền). Đi đến Quế Phủ, yết kiến ty Kinh Lược, được bảo rằng: Hiện nay Đông Kinh đương đều bắt binh mã đánh nước Kim, lần đi này ngựa trạm, người hầu ở chỗ nào cũng thiếu, không bằng hãy trở về. Thường mới trở về. Năm ấy nước Kim có Ly Phần vây hãm kinh đô Biện, bắt 2 Vua đem về Bắc.

Sao thiên cẩu xa xuống, có tiếng nổ như sấm.

Vua đau, triệu quần thần vào nhận di chiếu, rằng: "Loài sinh vật không có loài gì là không chết, mà người đời ai cũng thích sống ghét chết, Trẫm không cho là phải. Nghĩ như Trẫm khi ít tuổi đã phải chịu cơ nghiệp lớn, biết kính sợ đã 56 năm nay, nhờ Tổ Tôn phù hộ, biên cảnh được yên, nay chết được theo sau Tiên quân là may lắm rồi: Thái tử Dương Úc sẵn có thông minh thành thật, có thể nối được ngôi báu, quan Thái úy Lưu Khánh Đàm nên nhất tâm phò tá, quan Nội thị Lê Bá Ngọc phải phòng bị các điều bất ngờ, đừng bỏ lời Trẫm việc tang thì để 3 ngày thôi, việc táng cần phải sẻn nhặt". Đến ngày hôm sau thì Vua mất, Thái tử lên ngôi vua, Bá Ngọc tuyên thị các quan phải đến ngoài cửa Đại Hưng đợi mệnh, đóng hết các cửa thành, nghiêm cấm cả nội ngoại; một chốc cửa nách phía hữu mở ra, cấm quân đứng sắp hàng ở dưới điện, dẫn quần thần vào sân rồng. Vua sai Bá Ngọc tuyên dụ chỉ rằng: "Tiên đế đã thăng hà, ngôi trời không thể để không được, Trẫm lên nối ngôi, lo lắng vô cùng, các khanh phải nhất tâm giúp Trẫm không những không phụ lòng Tiên Đế, mà cũng là cùng với nước cùng yên hưởng phúc", quần thần lạy mừng ai nấy khóc cả. Vua xuống chiếu cho thiên hạ cứ yên nghiệp làm ăn như cũ

Sử thần bàn rằng: Vua Nhân Tôn có học cao minh, hiểu rõ việc đời, biết nghĩ đến người mất người còn, thấu lẽ tử sinh, xem như mấy câu nói khi sắp mất, không phải người không biết đạo lý không quan tâm đến việc sống chết. Tuy thế, vua Nhân Tông nói ra là người biết rõ đạo, vua Thần Tôn sở hành lại là thất hiếu. Thể lệ để tang ngắn ngày từ Hán Văn Đế nêu ra trước, vì ông học đao Hoàng Lão, việc gì cũng lui một nước, nên mới thành ra có lỗi. Vua Cảnh Đế cũng theo như thế, toại thành việc bất hiếu để lại nghìn đời sau. Vua Thần Tôn còn nhỏ tuổi chưa hiểu lễ, mà quần thần cũng không ai cán gián, sao thế?

1) Nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

2) Núi Tiên Sơn, nay thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3) Băng Sơn: Nay là xã Dương Sơn huyện Hoàng Hóa, Thanh Hóa.

4)Cửa Bố Hải. tức là Cửa Bo, nay là vùng thị xã Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

5) Nay thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. 6) Nay là làng Sủi, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

7) Nay là làng Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Lương, Bắc Ninh.

8) Nay thuộc vùng miền tây, tỉnh Thanh Hóa.

9) Nay là chùa Thày, núi Sài Sơn, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.



Nhà Lý

Thần Tôn Hoàng Đế

Anh Tôn Hoàng Đế

Cao Tôn Hoàng Đế

Huệ Tôn Hoàng Đế

Bà Chiêu Thánh Hoàng



THẦN TÔN HOÀNG ĐẾ

Vua tên là Dương Úc, con Sùng Hiền Hầu, vua Nhân Tôn nuôi, ở ngôi 11 năm. Khi vua mới lên ngôi hãy còn tính trẻ con, đến khi lớn biết tu bổ chính sự, dùng người hiền tài, cũng là vị vua có thể thành hiền quân được, duy chỉ có việc sùng đạo Phật quá, thích các điềm tốt, là đáng cười thôi. Niên hiệu Thiên Thuận thứ nhất, Vua xuống chiếu: phàm người dân có điền thổ bị lấy sung công và người dân phải biên vào sổ làm điền nhi và lộ ông, nay đều tha hết. (Điền nhi và lộ ông đều là người làm đày tớ để người sai khiến).

Vua tăng thước vị và phẩm trật cho các quan văn, võ. Lê Bá Ngọc làm Thái phó, tước là Đại liên ban, Mâu du đô làm Giám nghị, tước vị Nội Thượng Chế, để đền công giúp vua khi mới lên ngôi. Vua xuống chiếu: "Trong nước có tang không ai được cưỡi ngựa và đi xe lam sư" (kiểu xe thế nào không khảo cứu được). Vua sai sứ thần sang Tống báo cáo việc Vua mới lên ngôi, sai quan đến nước Chiêm Thành tuyên bố tờ chiếu khi Vua lên ngôi.

Nước Chân Lạp vào cướp đất Nghệ An, Vua sai Công Bình đem quân ra đánh ở bế n Ba Đầu Bộ, bắt được chủ tướng và quân lính của địch, quân sĩ về dâng tù binh đã bắt được, Vua cho là nhà Phật phù hộ mới được thế, bèn đến chùa tạ ân. Từ lúc ra quân đến lúc báo tiệp mới gần hai tháng, truy nguyên công đánh phá được giặc là công của tướng và sự khó nhọc của lính, không có lời khen ngợi úy lạo, mà chỉ quy công cho Phật, thế thì phàm những người lưng đeo áo giáp, tay chống ngọn giáo, đều không có chút công gì đáng khen, còn khuyến khích tướng sĩ sao được?

Quần thần dâng tôn hiệu lên Vua, Vua nói: "Trẫm tuổi trẻ nối nghiệp lớn, thế mà người nước sợ oai đều nhờ các khanh biết tận tâm chức vụ, giúp

Trẫm các điều sơ sót không nghĩ tới". Vua cho độ 4 người lão binh làm thày tăng.

Lão binh mà độ làm thày tăng, mất hết khí hùng cường đi rồi. Bỏ kiếm mà lần chuỗi tràng hạt, cởi chiến bào mà khoác áo cà sa, ngồi ở trong cửa không vắng vẻ, sao không nghĩ đến tình của khuê phụ vợ các chiến sĩ đương mong mỏi được vui cảnh cuốc ruộng, đưa cơm trong lúc luống tuổi.

Vua cải cho Lê Bá Ngọc là họ Trương. Họ của trời cho, không thể người ta làm được, yêu một vị bầy tôi mà cho cải sang quốc tính, người ta còn chê là cưỡng ép, nay Bá Ngọc là đại thần cho cải họ Lê sang họ Trương là nghĩa gì? Đó cũng là việc làm của người còn tính trẻ con đấy!

Vua tôn thân phụ làm Thái Thượng hoàng, thân mẫu là Đỗ Thị làm Thái hậu.

Vua Thần Tôn đã 14 tuổi, tuy không có tư chất như vua Hán Chiêu, nhưng sao lại không biết nhớ đến cái ân vua Nhân Tôn là cha, thì Sùng Hiền Hầu phải là Hoàng thúc, như việc Hiếu Tôn đời Tống xử với Tú An Hy Vương, là để tỏ ra có một gốc thì mới phải, bây giờ lại tư ân với người đẻ ra mình, là cớ sao thế?

Dân bắt được con hươu trắng, ở rừng Giang Để.

Trong sử đời vua Thần Tôn chép đến 29 điềm tốt, mà điềm con hươu đến tám lần, vì hươu mà được làm quan đến ba lần, dò xét hươu mà được thưởng hai lần. Thích hươu như thế, không biết dùng để làm gì, túng xử một con hươu lạc mất, lại đến sai nhiều người vác giáo đi đuổi, thật đáng cười lắm. Vua sai làm thần chủ vua Nhân Tôn, rước vào thờ ở Thái Thất (Thái Miếu).

Chủ là để hình tượng thần ở đó, thần nương tựa vào cái chủ. Tế ngu thì mới làm thần chủ, hết tế ngu thì mới đổi thần chủ, đã đổi thần chủ rồi, thì mới được rước vào thờ ở miếu, là lễ phải thế đó. Cho nên theo lễ thì phải có 2 thần chủ: 1 ngu chủ và 1 thần chủ. Ngu chủ làm bằng gỗ dâu, cao 1 thước 5 tấc, không đề tên thụy; thần chủ làm bằng gỗ táo, rửa nước thơm, lau khăn lụa, đề chữ mực, rồi quét sơn dầu ra ngoài.

Thể chế của nhà Tống: Đưa tử cung (quan tài vua) lên hoàng đường, lễ yếm toàn (bỏ xác chết vào quan tài mà che đậy lại) sắp xong, quan Nội yết rước ngu chủ đến trước quan tài, tâu xin thần linh nhập vào ngu chủ, liền rước lên xe đưa lên điện, chờ che đậy nắp quan tài xong thì làm lễ tế ngu thứ nhất. Từ lần tế ngu thứ hai đến thứ năm đều làm lễ tại Hành cung ở dọc đường, các quan làm lễ. Lần tế ngu thứ sáu làm tại kinh đô, quan Chánh khanh làm lễ; lần tế ngu thứ bảy đến thứ chín thì vua làm lễ, các quan làm bồi tế. Khi chín lần tế ngu xong rồi, thì làm lễ tốt khốc mà rước vào thờ ở miếu. Lễ tế ngu đến chín lần này có từ đời nhà Chu, đến đời nhà Tống không thay đổi. Chu Văn Công đặt ra ba lần tế ngu, đó là lễ tế người sĩ, cận lai dùng làm quốc lễ, theo nhau làm lỗ mỗ, chưa có xét khảo kỹ. Người giữ việc nước cải chính mới được.

Vua xuống chiếu cấm nô tỳ nhà Vương, Hầu không được ỷ thế đánh người, nếu phạm cấm lệnh đó thì phạt gia chủ.

Vua xuống chiếu con gái các quan đến tuổi cập kê chờ để tuyển vào cung cấm, người nào không trúng tuyển nhiên hậu cho đi lấy chồng.

Vua ra lệnh cấm con gái dân gian không được bắt chước lối ăn mặc nhà quan. Cấm thày tớ nhà quan không được lấy con gái nhà quan.

Sáu cung của nhà vua thiếu gì phi tần, mà cũng phải kén người hiền thục mới phải, đâu lại có xét khắp con gái bách quan để tìm sắc đẹp. Xưa kia Tôn Hiệu, và Tấn Vũ đã làm như thế. Nay vua Thần Tôn cùng một thói ấy, ham mê nữ sắc quá lắm.

Vua xá tội nhân thiên hạ, lại xá tù ơ phủ Đô Hộ.

Năm nào cũng xá, thì bọn gian còn sợ gì nữa. Trộm cướp đã có nhiều mà vua Thần Tôn làm cho chúng nó được tụ họp vào sào huyệt rừng rậm. Lạm dụng thuyết giới sát của nhà Phật, tha các kẻ phạm tội chết để hại lương dân, lại chỉ làm cho ngắn đời mình lại đó thôi. Như Vũ Hầu đời Hán, không xá kẻ có tội, mới thật là biết cách trị dân.

Nước Chiêm Thành sai sứ đến cống, Vua đương đánh cầu, cho sứ nước Chiêm vào xem. Vua Huy Tôn đời Đường giỏi về đá cầu, tự khoe nếu thi, thì sẽ trúng Trạng Nguyên, người phường chèo nói: "Nếu gặp phải vua Nghiêu, vua Thuấn làm lễ quan, sợ không khỏi bị đuổi ra mất"; lời này thật chê mỉa mai lắm. Vua Thần Tôn đem việc đá cầu khoe với sứ thần nước Chiêm, uy nghi của nước đâu có như thế được?

Nguyễn Mãi ở làng Thái Bình dâng con hươu trắng, lính ở đội quân Tả Vũ Tiệp là Đỗ Khánh dâng con cá vàng, Vua cho là điềm tốt. Lý Phụng Án là Hạp Môn sứ nói rằng: "Đó là những vật nhỏ mọn có gì là điềm tốt".

Sử thần bàn rằng: Vua Thái Tôn thích điềm tốt, như việc vàng bạc sản sinh ra; như việc có rồng vàng hiện ra, chỉ có một người thày chùa cho là bất thường. Vua Thần Tôn thích điềm tốt, như việc dâng con hươu, con cá. Đến việc con cá yết tùng chỉ một mình Phụng Án cho là phi thụy, cả triều các quan chỉ đều xu nịnh, một người nhà chùa lại dám nói thẳng, viên quan nhỏ dám can ngăn, các quan văn võ tại triều đáng hổ thẹn lắm.

Vương Cửu là lính ở đội quân Thạch Hưng Vũ dâng con rùa "Lục mâu", trên lưng có hình như quả lựu, Vua xuống chiếu cho quan Học sĩ biện luận hình ấy, thành ra 8 chữ: "Thiên hư hạ thị Thánh nhân vạn tuế"(1).

Sử thần bàn rằng: Giống rùa thiêng là vì nó báo triệu chứng; sau việc rùa ở Lạc Thủy(2), ở đâu cũng thế, chỗ đen chỗ trắng gián cách nhau, có gì là lạ, mà xuyên tạc, phụ hội thành ra hai chữ, bốn chữ, tám chữ, chỉ là tự dối mình đấy thôi. Xưa kia nước Tiêu Tề bắt được 2 con rùa, cũng có chữ Vạn hoan, Vạn tề, có quẻ Thuần tốn, Thuần đoài, mà không cứu vãn được việc mất nước, xem thế rõ ràng con rùa không phải là điềm tốt.

Vua xuống chiếu cho Lý Công Tín được ra vào trong cung cấm mà tâu việc, không ai được ngăn cản.

Trong cung cấm không phải là nơi các đại thần được ra vào, nếu mà Công Tín có tà tâm thì bà Lê Hậu đã là Dương Quý Phi của An Lộc Sơn rồi, còn đợi đâu đến Anh Vũ mới dám thất lễ. Việc bất chính trong nhà vua Thần Tôn, là vì không biết phòng bị cẩn thận ngay từ trước đó.

Vua cho vị tăng là Minh Không làm quốc sư: Khi bấy giờ vua đau nặng, thuốc uống vào không kiến hiệu, Minh Không chữa khỏi, nên mới cho làm quốc sư.

Đời truyền lại rằng: Khi Đạo Hạnh sắp thi giải (hồnn trút khỏi xác), lấy thuốc và thần chú giao phó cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức là Minh Không mà bảo rằng: "20 năm sau quốc vương có đau thì đem mà chữa", thuyết này xuất xứ ở sách trích quái. Ngoại truyện lại nói: "Từ Vinh là thân phụ Đạo Hạnh vì pháp thuật bị thày tăng Đại Điên giết mất, Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cho cha, vào tu đạo ở chùa Hương Tích, đi đường gặp Khổng Minh Không kết bạn cùng đi, đến chùa Vân Mông, nhà thày trao cho thần thông quyết, ở đó 3 năm rồi từ giã trở về, Đạo Hạnh muốn thử pháp thuật, nấp vào nơi hiểm, hóa làm con hổ để dọa Minh Không, Minh Không biết, trách là có tà hạnh, và lại có lời thần chú, Đạo Hạnh thẹn và hối, tạ lỗi nói: "Nghiệp thai sinh chưa trừ bỏ hết, dám phiền giải thoát cho". Đạo Hạnh về am, Minh Không về Giao Thủy. Sau nghe Đạo Hạnh thi giải, Minh Không cười, nói: "Vị hòa thượng này còn mộ phú quí ở cõi đời chăng?". Đến khi ấy vua Thần Tôn bị đau, kêu gầm muốn hóa ra con hổ, uống thuốc không kiến hiệu, nghe có lũ trẻ con hát rằng: "Dục y Lý Cửu Trung, tu đắc Khổng Minh Không". Bà Thái hậu nghe tiếng hát, mời Minh Không đến, khi tới nơi, trình bày thuyết nhân quả cho vua nghe, vua giác ngộ, khỏi bệnh. Minh Không có câu kệ rằng: "Kỳ lân đồ hậu mạt, nguyệt vọng đáo trung thiên". Người đời bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi và tuổi thọ đúng như lời kệ.

Minh Không người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, lại ở chùa Phả Lại, huyện Giao Thủy có tô

tượng thờ, mất vào năm Đại Định thứ 2, được 76 tuổi.

Sử thần bàn rằng: Triều Lý sùng đạo Phật, từ Vạn Hạnh nổi tiếng, nhiều người mộ và bắt chước, đến Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều là người Thanh Hải, thờ Hà Trạch Sa Môn làm thày; lại có Thông Huyền Chân Nhân cũng có đạo pháp cao, cho nên vua Nhân Tôn có câu: "Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền". Nhưng mà gọi được rồng xuống, phục được hổ dữ, không phải là tài bình loạn cứu nguy, bước vào chốn không, bay được lên trời, không phải là kế sách trị dân giữ nước, chỉ cũng như loại La Thập, Đồ Trừng đó thôi, có ích gì cho đời, thế mà đời vua nào cũng làm cho Phật giáo thành ra thần dị, còn đến có ông vua để riêng một số dân làm người hầu ở chùa, thì mê hoặc quá lắm.

Trong sử có chép Hoàng Bà mất, Ngô Sĩ Liên cho rằng: Hoàng Bà là "Bảo mẫu". Nếu quả thật là Bảo mẫu, thì chép thế nào? So với cổ lễ thì không có, dùng bằng quốc tâm thì không chính nghĩa. Có quan hệ gì mà cũng chép vào sử.

Nghệ An có động đất, nước sông đỏ như máu.

Gặp năm đại hạn, vua xuống chiếu quần liêu hội nghị. Phạm Tín xin tế Hu để cầu đảo.

Trong thời gian 10 năm không năm nào là không đại hạn, khi thì cầu đảo ở cung Báo Thiên, khi thì cầu đảo ở chùa Pháp Vân, may mà trời mưa, thì quy công cho Thích Già, chưa thấy có một lời nào tự trách mình hay ban một ân điển thương dân nào; đến bấy giờ giao quần thần hội nghị, chính sự thời ấy thiếu sót, dân gian đau khổ, lại không có việc gì đáng nói hay sao? Hội nghị trong một nhà, vẫn cứ mờ mờ mịt mịt, ngoài sự xinh tế Hu để cầu đảo, không có việc gì đáng can gián, bày tỏ, chỉ lấy sự dâng tờ biểu mừng điềm tốt làm công việc bổn phận, là tận trung với vua; nhân tài hèn kém, đáng than thở lắm. Vua bị đau, Hoàng tử là Thiên Lộc mới 7 tuổi, đã được lập làm thừa tự. Khi ấy ba bà phu nhân: Cảm Thánh, Phụng Thánh và Nhật Phụng muốn cải lập người khác, hối lộ cho Từ Văn Thông để tán thành việc đó, vừa gặp lúc Văn Thông được triệu vào thảo tờ di chiếu, Văn

Thông chưa dám xin cải, chỉ cầm bút không chịu viết, một lát, ba bà phu nhân đến, cùng nghẹn ngào nói: "Lũ thần thiếp được biết đời cổ lập con trưởng không lập con thứ, Thiên Lộc là con người thiếp yêu,mà mẹ lại có tính ghen, mẹ con lũ thần thiếp tránh khỏi nạn sao được?". Vua bảo rằng: "Thiên Tộ là con trưởng, nên được chịu nhận cơ nghiệp lớn. Thiên Lộc thì nên phong cho làm Minh Đạo Vương". Ngày hôm sau, vua mất, Thái tử là Thiên Tộ lên ngôi vua, cải niên hiệu là Thiệu Minh, tôn bà mẹ là Cảm Thánh Lê Thị lên làm Hoàng Thái hậu.

Sách Quế Hải chí của Phạm Thành Đạt đời Tống, có nói: "Vua Anh Tôn có người anh bị phế, đảng của người ấy chạy sang tố cáo với nhà Tống, nhà Tống lại bắt tội người ấy; ý tất là Thiên Lộc.

Sử thần bàn rằng: "Vua Nhân Tôn nuôi người con nuôi, không đặt quan Sư, Phó hiền để dạy bảo, nên nỗi vua Thần Tôn đã đứng tuổi; mà chưa biết lễ nhạc. Vua mất còn để đó, mà đi rước lập Thái hậu, làm con vua Nhân Tôn, mà tôn riêng người sinh ra mình, đều là sự lỗi lầm lớn cả. Đến sự bình được giặc mà tạ ân Phật, dâng con hươu mà cho làm quan, vô cớ mà tha thù tội, kén gái đẹp mà cấm giá thú, hành vi càn bậy, không được một việc gì làm phải lẽ. Kinh Dịch, nói rằng: "Gặp phải vị vua âm nhu, tất phải có bày tôi dương cương để mà giúp đỡ, mới làm nên việc". Vua Nhân Tôn 7 tuổi mà làm vua, được Đạo Thành giúp cho, mà mọi chính sự được sửa sang; Vua Cao Tôn lên 2 tuổi nối ngôi, có Hiến Thành biết lẽ phải mà đánh tan mưu mô phế lập, còn vua Thần Tôn, Anh Tôn thì tả hữu không được người nào, đến nỗi chính sự thiếu sót rối ren, kẻ gian tà làm loạn triều chính. Cho nên dùng người để lên ngôi tướng, không thể nào không thận trọng được.



ANH TÔN HOÀNG ĐẾ

Vua tên là Thiên Tộ, con trưởng vua Thần Tôn, làm vua được 37 năm. Trong khi lập con nọ phế con kia mà không hoặc về lời người đàn bà, biết gửi con cho người bầy tôi hiền cũng xứng đáng là vị vua biết trách nhiệmcủa mình. Nhưng mà không biết phân biệt kẻ gian tà, không xét công minh việc hình phạt, đến nỗi có thiên tai luôn luôn, giặc cướp,nổi lên, chính sự bỏ bê, là đáng chê trách.

Niên hiệu Đại Định thứ nhất, kẻ đi bói là Thân Lợi tự xưng là con vua Nhân Tôn, tụ đảng chiếm cứ hai châu Thượng Nguyên, Hạ Nông khởi loạn, tiếm xưng là Nam Bình Vương, nói rêu rằng nó có thuật dụng binh giỏi, để uy hiếp các động Mán ở bên giới, ai cũng phải sợ, nôn nao; quan ở biên giới dâng thư tháo cấp, vua xuống chiếu cho Lưu Vũ Xưng, Hứa Viên đem quân đến đánh, đóng quân ở sông Bác Đà, gặp toán thủy quân của tên Lợi đánh nhau, Vũ Xưng thua; tên Lợi thừa thế xua đuổi cả nhân dân Châu Vĩnh Thông và Cảm Hóa đến đánh phủ Phú Lương, vây hãm thành phủ, kéo quân về cướp kinh đô. Vua sai quan Thái úy Đỗ Anh Vũ đem quân ra cự chiến, gặp quân giặc ở Quảng Dịch, quân Lợi thua chạy, đuổi đến sông Nam Hán, bắt được tên thủ lĩnh là Dương Mục, Chu Ái, đóng cũi giải về kinh đô, tên Lợi chạy thoát được thân, chaạy đến châu Lục Linh, quan Thái phó Tô Hiến Thành bắt được tên Lợi, báo tin lên vua biết. Vua ngự ở đền Thiên Khánh nhận tù binh, chém đầu tên Lợi, và các tên thủ mưu 20 người, người nào bị bắt phải theo gặc, thì tha cho hết, xuống chiếu chiêu tập dư đảng của giặc cho về an nghiệp.

Niên hiệu Thiệu Hưng thứ nhất, đời Tống, quan tỉnh Quảng Tây nói rằng: "Vua Nhân Tôn nhà Lý có người con của cung thiếp sinh ra, không nhận là con, mà lập vua Thần Tôn. Người cung thiếp ấy chạy sang Đại Lý, đổi tên là Trí Chi. Khi vua Thần Tôn mất, Đại Lý cho Trí Chi về nước muốn tranh ngôi vua với Anh Tôn, xin mượn quân của nhà Tống, quan tỉnh Quảng Tây đưa việc ấy tâu lên, vua Tống xuống chiếu khước từ. Chắc rằng Trí Chi với Thân Lợi là một người, sự trần tình để xin nhà Tống cho việc binh, là nói dối để lừa nhà Tống đó".
Lưu Vũ Xưng dâng con hươu trắng.

Một đời nhà Lý, chính sự phần nhiều rộng quá và bỏ bê, xem như Văn Trịnh mưu làm phản mà không bị chết. Vũ Xưng thua trận mà không bị tội, nhất vị nín lặng, chả trách Anh Vũ hống hách chuyên quyền được.

Vua định phép chuộc ruộng, nhận ruộng.

Cầm ruộng trong 20 năm được chuộc, ruộng tranh nhau trong 20 năm được thưa kiện, có thửa ruộng bỏ hoang bị người canh tác mà phải tranh kiện, không được để quá một năm. Ruộng đã đoạn mãi mà đã có văn khế hay khoán ước thì không được chuộc. Ai trái lệ này thì bị tội 80 trượng.

Vua cấm giết trâu riêng, có tế tự phải tâu xin, chờ có chỉ cho mới giết. Ba gia đình là một Bảo, người trong Bảo biết mà không cáo giặc, cũng bị tội như người giết riêng.

Vua sai xây dựng các đền thờ thần. (Các đền thờ như là: núi Tản Viên, Bố Cái, Ông Nghiêm, Ông Mẫu v.v.).

Người có yêu thuật của nhà Tống là Đàm Hữu Lượng trốn vào châu Tư Lang, nói dối là đi sang sứ, dụ người nước ta đưa đồ đảng đến cướp châu Quảng Nguyên. Khi bấy giờ Nam, Bắc thông hiếu với nhau đã lâu, chợt nghe có biên báo, triều đình không hiểu ra sao, vừa gặp Ty án sát Quảng Tây đưa văn thư ước hẹn cùng ta đuổi bắt Hữu Lượng, liền sai lũ Dương Tự Minh đánh bình được, bắt được Hữu Lượng hơn 20 người giao trả cho nhà Tống, quan Tri châu Ung của Tống là Triệu Nguyên nhân lũ Hữu Lượng đem chém cả. Vua xuống chiếu kén người bổ sung vào Cấm quân, chỉ kén người ở lộ lớn, không được lấy người cô độc.

Vua ra lệnh cấm người Mán Lào ở 2 trấn Đại Thông, Quy Nhân vô cớ không được vào kinh đô. Vua cho lập ra trang Vân Đồn(3). Khi bấy giờ thuyền buôn 3 nước Qua Oa, Lộ Lạc, Tiêm La vào trú ở Hải Đông để buôn bán, có nhiều đồ quí báu của xứ họ, tiến lên Vua, Vua sai lập ra trang Vân Đồn cho các người buôn ấy ở. (Hiện nay châu Vạn Ninh, có phủ Lương An đều người buôn xứ Bắc ở cả, có từ trước).

Nguyễn Dương lập mưu giết Anh Vũ, không xong, tự tử chết. Khi bấy giờ vua còn nhỏ tuổi, Anh Vũ giữ cả việc nội ngoại, ra vào cung cấm, thông gian với bà Lê Thái hậu. (Anh Vũ người đẹp, khéo múa hát, đời vua Thần Tôn được vào hầu gần Vua, bà Lê Thái hậu yêu tiếng hát và sắc đẹp, muốn tư thông với y đã lâu, đến lúc ấy sửa lại cung Quảng Từ làm rất xa xỉ đẹp đẽ, ngày đêm ăn nằm với Anh Vũ mà Vua không biết) nhân cậy có bà Thái hậu yêu lại càng kiêu quá, ở triều đình mà khoa tay nói lớn, sai khiến các quan như sai tôi tớ. Vũ Đới, Dương Tự Minh định kế đánh Anh Vũ, gọi quân sĩ hô lớn rằng: "Anh Vũ làm hung ác, xấu xa, khắp trong ngoài đều biết, lũ thần xin giết y đi". Có chiếu xuống bắt Anh Vũ giam vào ngục, giao quan Đình Úy tra án đó, bà Thái hậu sai người đưa rượt thịt giấu kín vàng bạc vào trong đó, để hối lộ cho Vũ Đới; Nguyễn Dương biết chuyện đó, bảo Đới rằng: "Làm sao anh lại tham của hối lộ mà không tiếc gì đến tính mạng" bèn cầm giáo toan đâm. Đới cướp đượccây giáo, ngăn đi nói rằng: "Tội Anh Vũ đáng chết, phải chờ mệnh lệnh của vua, không nên tự chuyên". Dương giận lắm, nói đến cứt đái với Đới và nói: "Vũ Đới tất chết về tay Anh Vũ, đừng hốt rằng ta không bảo trước"; nó xong biết rằng mình cũng không khỏi chết, bèn nhảy xuống giếng tự tử. Vua xét việc án Anh Vũ, phát đày đi xa, làm kẻ làm ruộng, bà Thái hậu lo buồn, lập ra đại hội luôn, xá cho các tội nhân, mong Anh Vũ được dự vào số đó, quả nhiên vì xá tội luôn mà Anh Vũ lại phục chức như cũ, lại cũng được yêu thêm, không kiêng sợ gì, vẫn nghĩ kế báo thù, mật tâu vua rằng: "Trước kia Vũ Đới vô cớ chạy vào cung cấm, tội đó lớn lắm; nếu không trừ sớm đi, sợ lại sinh ra biến loạn". Vua không xét biết gì, liền y theo lời tâu. Anh Vũ lập tức sai Phụng quốc Vệ úy (là người riêng của y đưa vào để tiện sai khiến) đến bắt Đới chém ngay, lũ Dương Tự Minh thì bày đi nơi châu xa khí hậu độc.

Dân đói lớn, một cân gạo trị giá 70 đồng tiền.

Cấm kẻ yêm tự (bị thiến) không được thiện tiện vào cung vua, các quan triều không được đi lại nhà các vị Hầu, ở trong cung cấm không được tụ năm tụ ba bàn nói chê bai, phụng mệnh hộ vệ ở trong cung vua, không có chiếu thư mà thiện tiện mang binh khí đi qua nơi địa đầu, đều bị tội.

Sử thần bàn rằng: Cái kế của bà Lê Thái hậu phòng người ta cũng chu đáo, nhưng mà tiếng xấu đã rõ rồi, không che giấu được, sợ rằng tiếng xấu ấy thấu đến ngoài, không che giấu được, có kẻ nghĩa khí sẽ bàn luận gì chăng, và cũng sợ bọn thân quân không biết sớm hôm lúc nào lại sinh biến chăng, cho nên mới đặt ra nghiêm cấm như thế. Vua Anh Tôn thật là ngốc dại quá.

Trời mưa cát vàng.

Mùa đông, thì học ở trong điện (Bấy giờ phép khoa cử chưa có thể lệ nhất định, nhân có lúcnào muốn kén người mới thi đó thôi).

Người nước Chiêm Thành là Ung Minh Tá Điệp đến cửa nhà Vua xin cho y làm vua, Vua xuống chiếu sai Lý Mông đem quân dẫn về nước, bị vua Chiêm Thành là Chế Bì La Bút giết mất, nhân thế vua Chiêm dâng con gái, Vua nhận, không hỏi gì đến việc ấy nữa.

(Đã khởi binh càn bậy, làm cho quân thua nhục quốc thể, lại còn nhận đứa con gái Mường mà không vấn tội, là cớ sao thế?).

Nông Khả Cầu chiếm cứ Tràng An làm phản, vua thân hành đi đánh, 10 ngày bình được.

Đất Thiên Tràng thì núi và khe suối cũng không hiểm trở cho lắm, thế mà Khai Minh Vương trước kia đã làm phản ở nơi ấy, nay Nông Khả Cầu cũng lại làm phản ở nơi đó; vì rằng đất ấy ở trong thì thông với Thiên quan, ngoài thì liền với đất Nga Sơn Tống Sơn, núi rừng chồng chập, khe suối quanh co, có địa thế cho chúng nương tựa được, cho nên bọn phản nghịch cứ tụ tập ở đó để quấy rối.

Vua cho thu thuế ruộng mùa hạ.

Vua sai xây dựng nhà cửa lớn, làm điện Thụy Quang, đình Thưởng Hoa, ao Kim Liên, cầu Minh Nguyệt và thuyền Đại Diệp, tầu Vĩnh Chương.

Một triều Lý, dùng sức dân nhiều, không vua nào bằng vua Anh Tôn, trong thời gian 37 năm, hai lần làm miếu, ba lần làm đền thờ, 6 lần đóng thuyền, còn việc xây đàn, xây cửa, làm nhà kho, sửa sang cầu, đều một lần. Nước lụt, đại hạn luôn luôn, mà không thấy ra ân tha thuế hay phát chẩn, ơn huệ của tổ tông đến đây là tiêu tan hết. Duy có hai việc xây đàn tế trời đất và lập miếu Khổng Minh là hợp nghĩa mà thôi.

Vua cho đặt các hộp bằng đồng ở sân điện, cho người nào có việc gì thì bỏ thư vào trong đó.

Khi trước Nguyễn Quốc đi sang sứ nhà Tống về, nói rằng: "Thấy ở sân điện triều đình Tống có đặt cái thùng bằng đồng để nhận sớ tấu, cho được thông suốt tính tình của kẻ dưới". Vua cho làm theo; vừa gặp có lúc kẻ đầu thư nặc danh nói Anh Vũ khởi loạn. Anh Vũ vu cho Quốc làm ra, mới đày Quốc đi Thanh Hóa, rồi đánh thuốc độc cho chết.

Tự cổ đến giờ bọn gian thần bên trong nhờ cậy vào Mẫu hậu, bên ngoài chuyên chế việc triều đình, đều là vì vua hãy còn nhỏ tuổi quá đi thôi. Vua Thủy Hoàng lớn lên, thì Lao Ái phải giết, gian tình của Hồ Hậu lộ ra, thì Đàm Hiển phải chết. Vua Anh Tôn đã ngoài 20 tuổi, việc tư tình của Lê Hậu, gian trạng của Anh Vũ, đều đã biết cả; huống chi sau khi binh biến đã bắt được tội nhân, mà lại ân xá luôn luôn để cho nó được phục chức, rồi nó báo thù Vũ Đới, đánh thuốc độc chết Nguyễn Quốc, chả phải chí ngu là gì?

Đỗ Anh Vũ chết.

Vua Anh Tôn lên ngôi vua mới 3 tuổi, thơ ấu hơn Đinh Toàn, Lê Hậu tư thông với Anh Vũ quá tệ hơn Dương Hậu; Anh Vũ là Thái úy giữ binh quyền, mạnh hơn Thập Đạo, mà quần thần tại triều lại không có một người nào làm được như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hậu còn nghĩ gì đến xã tắc nhà Lý mà không đem cho người yêu, để làm như Thắng Minh Hoàng hậu của nhà họ Đỗ; trong thời gian 20 năm, vua Anh Tôn còn được xưng là quả nhân giữ việc biên tế, không đến nỗi như Vệ Vương nhà Đinh bị mũi tên lạc ở Cùng Giang, là cớ sao? Đó là trời đấy.

Tô Hiến Thành làm quan Thái úy, kén người đinh tráng xung vào quân ngũ, chọn tướng hiệu thông binh pháp, am hiểu sách và nghề nghiệp chia cho quản lĩnh quân ấy. Liền lại cho Tô Hiến Thành làm Đô tướng, đưa quân đi tuần phía biển tây nam, an trấn biên giới. Khảo khóa công việc các quan văn, võ, không phạm tội lỗi thì được lên trật. Đinh ra 9 năm một lần khảo, làm lệ vĩnh viễn.

Mùa thu, các học sinh thi.

Nước ChiêmThành đưa quân Phong Thủy vượt biển vào cướp, vua sai Tô Hiến Thành đi đánh, Chiêm Thành xin hòa, từ khi ấy trở đi phải giữ lễ phiên thần, không dám bỏ thiếu cống hiến. Sứ thần nhà Tống và sứ thần nước Kim cùng đến nước ta, Vua sai lấy lễ tiếp đãi kín, không cho hai bên gặp nhau.

Vua tập cưỡi ngựa và bắn ở phía nam thành Đại La, các quan văn võ tập các cách đánh giặc phá trận.

Vua đi tuần ngoài Hải Đảo, xem khắp hình thế núi sông, hỏi hết các điều tật, khổ trong dân gian, vẽ bản đồ và ghi chép phong tục nhân vật rồi trở về.

Từ khi Hiến Thành cầm binh quyền, việc quân cơ, việc canh biên giới có một phen chấn chỉnh lại hết. Chính sự năm Bảo Ứng với chính sử năm Đại Định, một đằng chăm chỉ, một đằng trễ nải, khác xa nhau. Kinh thi có câu: "Việc gì cũng tốt tại người", thật là đúng.

Vua sai Doãn Tử Tư sang thăm nhà Tống đưa cho 15 con voi đã dạy thuần rồi. Cuối năm Đại Định, vua Cao Tôn nhà Tống đình việc cống voi, đến lúc ấy vua Hiếu Tôn mới tức vị, đưa thư sang mua những con voi đã dạy thuần rồi, để rước khi đi tế giao, vua ta đưa cho 10 con voi làm lễ mừng tức vị, 5 con voi dâng lên để dùng khi đại lễ, làm cái lầu trên lưng voi gọi là La nga (lầu trên lưng voi) và các đồ buộc ở ngà, chân và đầu voi, trang sức bằng vàng bạc, rồi mới đem cho. Tử Tư đi đến quán Hoài Dịch, vua Tống cho dẫn kiến và hỏi han úy lạo.
Từ khi nhà Tống phải bỏ xứ Bắc qua sông sang miền Nam, thì khi sứ thần nước ta có sang chỉ đi đến Quảng Tây giao đồ cống, chứ chưa đến kinh đô, đến khi ấy Tử Tư làm Đại sứ chưa bao giờ có đủ 3 sứ thần, đến khi ấy cho Tử Tư làm Đại sứ, Lý Bang Chính làm Chánh sứ, Nguyễn Văn Hiến làm Phó sứ; người theo làm người giới thiệu đều đặt đủ; Vua Tống thấy ở xa mà đến, rất khen là trung thành, lễ tiếp đãi cũng khác hơn, và xuống chiếu gọi tên nước là An Nam quốc,cho ấn bằng vàng.

Sử thần bàn rằng: Nước ta từ đời Hùng Vương giao thông với Trung Quốc, nhưng còn chưa được có địa vị ở Minh Đường, không được chép vào sách Xuân Thu, là khinh vì nước nhỏ. Đến đời Triệu Đà ở nhà vàng, xưng Đế, nhà Hán phải phong làm Nam Việt Vương, chỉ được ví với Chư hầu ở nội địa, cũng chưa có gì nêu ra là một nước. Sau lại ngoại thuộc Hán và Đường, chia nước ra thành quận, huyện. Đến đời Đinh, Lê thì có đất riêng, mới lập thành một nước, được gia cho chức quan Kiểm hiệu Tam súy, sau tiến lên chức Quận vương; các Vua triều Lý cũng đều như thế. Đến đời vua Anh Tôn một việc bang giao, chu toàn thân mật, sai 3 sứ thần đến quan ải, giữ đủ lễ, làm cho Trung Quốc biết nước đã văn minh, Tử Tư 2 lần đi sứ, tỏ được lòng thành cung thuận, vua Tống phải khen, cho vua ta được là Chân Vương, có quốc hiệu, sau này vẫn làm theo mà không đổi khác được, đó là công vua Anh Tôn, mà Tử Tư cũng đáng là vị sứ thần. Duy có điều để chữ "An" ở trên chữ "Nam", đó là người Tống có ý ngăn ngừa nước ta. Nay muốn chính danh chỉ gọi là Nam Việt, có lẽ phải chờ đến một vị anh quân.

Vua sách phong Long Hãn làm Thái tử, Tô Hiến Thành làm Thái phó để dạy Đông cung. Trước kia Thái tử Long Sưởng gian dâm với cung phi, vua không nỡ giết, chỉ giam thôi; Vua bảo Tể tướng rằng: "Muốn lập Long Hãn làm con thừa tự, nhưng tuổi còn nhỏ, ta thì suy yếu, biết làm sao được?". Vừa lúc đó, người trong nội ẵm Long Hãn ra chỗ Vua, thấy Vua đội khăn, Long Hãn xin để cho đội, Vua chưa cho thì khóc, Vua liền bỏ khăn mà đội cho Long Hãn thì cười ngay; Vua lấy làm lạ, mới quyết định lập làm con thừa tự. Bà Hoàng hậu Lê Thị xin lập Long Sưởng, Vua nói: "Làm con mà bất hiếu, còn trị dân sao được", bèn không nghe lời.

Thái hậu quen làm việc hối lộ biết đâu Hiến Thành lại không là Vũ Đới?.
Vua bị đau, xuống chiếu cho Tô Hiến Thành ẵm Thái tử mà nhiếp chính. Vua mất, bà Thái hậu hối lộ vàng bạc cho vợ Hiến Thành, lại muốn làm việc phế Thái tử lập người khác. Hiến Thành nói: "Làm đại thần giúp Vua còn nhỏ tuổi, lẽ nào lại nhận hối lộ", Thái hậu lại triệu ông vào mà dụ dỗ, ông trút mũ ra mà thưa rằng: "Làm điều bất nghĩa mà được giàu sang, trung thần không ai làm thế. Tôi không dám vâng lời". Việc đó mới thôi.

Trong mấy năm mới làm vua, Anh Tôn chỉ là trẻ con si ngốc, tha hồ cho mẹ cùng kẻ gian thần công nhiên làm vợ chồng, mà không hay biết gì. May mà trời tựa cho họ Lý, Anh Vũ bị trời bắt chết, rồi được có Hiến Thành phò tá ở trong triều, bôn tẩu ơ bên ngoài; Vua cũng biết răn sợ, dần dần có trí lực biết giảng tập võ bị, kén tướng giỏi, chọn sứ thần, nước Chiêm Thành phải giữ lễ phiên thần, nhà Tống phải tôn như một nước lớn; đến mấy năm sau được có người hiền mà phó thác, làm cho nước yên như sập đá, so với năm trước khác hẳn như hai người, đó là vì có tư chất tốt, nên trong nước được bình yên sáng sủa.



HUỆ TÔN HOÀNG ĐẾ

Tên là Kiểu, con trưởng vua Cao Tôn, ở ngôi vua 14 năm, bị Trần Thủ độ giết. Vua là người tài hèn, gặp hy loạn, vì người vợ đẹp mà gây nên biến loạn, không biết tìm người kế tự, họ Lý mới bị mất nước.

Niên hiệu Kiến Gia thứ nhất, vua sai đưa thuyền rồng đi rước Trần Thị về, anh Thị là Trần Tự khánh lấy cớ bấy giờ đương loạn, chưa cho rước về. Vua lại sai Phạm Bố đi đón rước vào cung lập làm Nguyên phi, cho Trung Từ làm Thái úy phụ chính, phong cho Tự Khánh làm Chương Thành hầu. Bấy giờ đâu đâu cũng có giặc cướp nổi lên, không ngăn cấm nổi, Vua ủy nhiệm cả việc nước cho Đàm Dĩ Mông, mà Dĩ Mông là người nhu nhược, không biết quyết đoán. Chính sự ngày một rối nát, vua sai Đoàn Thượng mộ dân Hồng Châu(5) đi tiễu giặc, Thượng thấy vua còn tính trẻ con, nhân cơ hội chuyên quyền tác oai tác phúc, bị uần thần hạch, phải giam vào ngục tra xét. Thượng rút gươm một thân chạy đi Hồng Châu, xây đồn luỹ mà ở, tiếm hiệu là Vương, triều đình không chế ngự được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét