Nguyễn Gia Kiểng 013

Cõng rắn cắn gà nhà

Nếu nỗi oan khiên kéo dài của Lê Chiêu Thống có thể giải thích được thì sự lên án Nguyễn ánh là cõng rắn cắn gà nhà lại càng khó hiểu.
Nguyễn ánh bị nhiều người lên án là đã rước quân Pháp vào Việt nam, để rồi Việt nam bị Pháp đô hộ. Điều này hoàn toàn sai. Nguyễn ánh chết năm 1820, trong khi
người Pháp chỉ bắt đầu xâm chiếm nước ta từ năm 1858, nghĩa là 38 năm sau dưới triều Tự Đức cháu nội ông. Hai vị vua nhà Nguyễn, Minh Mạng và Tự Đức, xứng đáng bị lên án nặng nề, nhưng không phải vì họ đã thỏa hiệp với Pháp mà vì họ đã chống Pháp một cách điên cuồng và mù quáng. Nguyễn ánh không phải đã không làm những việc sai trái. Năm 1784, ông đã gởi hoàng tử Cảnh theo giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện Louis XVI. Hai bên ký kết thỏa ước, theo đó Nguyễn ánh sau khi thành công sẽ dành nhiều đặc quyền lớn cho người Pháp và nhượng đứt đảo Côn Lôn cho Pháp. Ông cũng đã cầu viện quân Xiêm sang Việt nam giúp đánh quân Tây Sơn. Nhưng cả hai việc làm đáng trách này đã không giúp được gì cho ông. Thỏa ước ký với Louis XVI đã không được thực hiện, còn đám quân Xiêm thì đã bị Nguyễn Huệ đánh tán nhanh chóng. Sau này Nguyễn ánh thành công, khôi phục được nhà Nguyễn hoàn toàn dựa vào cố gắng của chính ông. Nguyễn ánh có sử dụng một số tay đánh thuê người Pháp, nhưng đó chỉ là những cá nhân, điều này rất bình thường thời đó. Anh em Tây Sơn cũng đã sử dụng bọn cướp biển Lý Tài và Tập Đình; họ cũng cố tranh thủ sự ủng hộ của người phương Tây mà không được vì người phương Tây chỉ coi Tây Sơn là quân cướp.

Có người nói vì Nguyễn ánh cầu viện mà người Pháp mới biết tới Việt nam. Lời buộc tội này lại càng ngây ngô hơn nữa. Người châu Âu nói chung và người Pháp nói riêng đã đến Việt nam từ đầu thế kỷ 16, lúc tổ tiên Nguyễn ánh là Nguyễn Hoàng chưa ra đời, rồi liên tục gia tăng sự hiện diện. Họ đã thiết lập nhiều trung tâm thương mại tại Hội An, Hà Nội và Hưng Yên. Người châu Âu đến nước ta là lẽ tự nhiên vì lúc đó họ đã mạnh và đang bung ra khám phá thế giới. Việc họ đến nước ta, đem theo một văn hóa và một kỷ thuật mới đáng lẽ phải là một may mắn lớn cho nước ta, chỉ tiếc rằng chúng ta đã không đủ sáng suốt để lợi dụng. Nguyễn ánh có công lớn với đất nước. Chính ông đa thống nhất được đất nước. Không có ông không chừng ngày nay miền Nam và miền Bắc vẫn còn là hai quốc gia riêng biệt. Phe cộng sản mạt sát Nguyễn ánh là điều dễ hiểu, nhưng điều ngạc nhiên là Nguyễn ánh bị lên án một cách hò đồ như thế mà không được minh oan một cách rõ rệt, trong khi tôn thất nhà Nguyễn, ngày trước và ngay bây giờ, không thiếu những người có kiến thức và trình độ cao. Đó là vì một bên có lý do để ra sức buộc tội Nguyễn ánh, còn một bên dù muốn bênh Nguyễn ánh cũng không thể bào chữa cho ông một cách thông suốt. Nếu muốn bào chữa cho Nguyễn ánh thì phải mổ xẻ sự nghiệp của ông một cách khách quan nhưng điều này lại khó làm. Muốn nói rõ về Nguyễn ánh thì bắt buộc phải nhìn nhận những sai phạm của ông đối với đất nước - cầu viện Pháp, cầu viện Xiêm, và cách đối xử thô bạo của ông đối với con cháu Tây Sơn. Cũng phải luận việc ông bội bạc và giết hại các công thần. Điều này các vua nhà Nguyễn không cho phép vì họ không thể chấp nhận một phê phán nào về ông tổ của họ. Sau này Ngô Đình Diệm, sau khi đã truất phế vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, cũng không dại gì mà bênh vực ông tổ nhà Nguyễn. Sau Ngô Đình Diệm là chế độ của các tướng tá, trong đó nhưng vấn đề văn hóa, lịch sử không đặt ra nữa. Nguyễn ánh bị buộc tội oan trong khi ông là người có công lớn, và hơn thế nữa tổ tiên ông còn có công rất lớn là đã khai phá ra một nửa đất nước.
Nếu ai hỏi tôi ai là người có công nhất đối với Việt nam, tôi sẽ lưỡng lự giữa Lý Công Uẩn và Nguyễn Hoàng. Lý Công Uẩn có công lập ra một quốc gia Việt nam thực sự, có kỷ cương, có triều chính, có văn hóa và đặt nền nếp cho Việt nam từ đó về sau (nhưng đồng thời ông cũng vô tình làm một điều tai hại là khẳng định vai trò của Khổng Giáo như một văn hóa chính thức). Nguyễn Hoàng có công mở ra một nửa đất nước, và đó cũng là nửa nước trù phú nhất. Lưỡng lự giữa hai người nhưng nếu bắt buộc phải chọn một người có lẽ tôi thiên về Nguyễn Hoàng.

Trước năm 1945, hình như không có chuyện buộc tội Nguyễn ánh. Phan Chu Trinh, một người chủ trương dân chủ và công khai bài xích triều Nguyễn, khi xỉ vả vua Khải Định là hèn đốn đã viết:

Ai về âm phủ hỏi Gia Long,

Khải Định thằng này phải cháu ông?

nghĩa là cũng nhìn nhận Nguyễn ánh là bậc anh hùng. Sau năm 1945, nhà Nguyễn đã thoái vị, đảng cộng sản đã nắm chính quyền tất nhiên không còn muốn lòng dân nhớ nhà Nguyễn nữa. Lời cáo buộc Gia Long cõng rắn cần gà nhà bắt đầu từ đấy. Khi cựu hoàng Bảo Đại trở về thành lập chính quyền quốc gia, mạt sát và hạ bệ Gia Long dĩ nhiên nằm trong chính sách tuyên truyền của đảng cộng sản. Dưới chế độ cộng sản bênh vực Gia Long, chưa nói đến khen Gia Long, là phạm tội phản động.

Vụ án Gia Long tuy không ồn ào bề ngoài nhưng trong chiều sâu đã gây chia rẽ không nhỏ trong hàng ngũ miền Nam trước năm 1975. Tôi đều có nhiều dịp nhận ra điều đó. Một lần tôi được chứng kiến một cuộc cãi vã ngắn nhưng rất dữ dội. Trong một câu chuyện vãn, không hiểu tại sao hai nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ và Nguyễn ánh lại được đề cập tới. Một anh bạn khen Nguyễn Huệ là anh hùng, chê Gia Long là tầm thường, may nhờ Nguyễn Huệ mất sớm mà thắng được. Một anh bạn khác phản ứng một cách giận dữ: Nguyễn Huệ là một tên tướng cướp gặp thời, Gia Long mới có công thống nhất đất nước. Anh kia cũng không chịu thua. Cả hai đi tới kết luận là người trước mặt mình không có trình độ, rồi họ chấm dứt cuộc thảo luận với cùng một nét mặt khinh bỉ. Về sau tôi có hỏi người nọ về người kia, cả hai đều nói về nhau một cách nặng lời, chắc chắn là không thể hợp tác với nhau được nữa. Tại sao một giai đoạn lịch sử hai trăm năm về trước lại có thể chia rẽ chúng con người ngày hôm nay? Chúng ta đặt quá nhiều đam mê và xúc động vào một lịch sử rất không chính xác.
Thương nhau thương cả đường đi

Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.

Có lẽ nhiều người đã giận các vua Minh Mạng, Tự Đức mù quáng và ngoan cố làm mất nước, ghét Bảo Đại hèn nhát trác táng, rồi ghét luôn cả Gia Long. Nhưng cách vận dụng lịch sử thiếu lương thiện nhất eâxn thuộc về đảng cộng sản. Họ luôn luôn bóp méo lịch sử cho những mục đích tuyên truyền. Năm 1979 khi vừa cải tạo về tôi nghe đứa cháu gái tôi học lịch sử: Năm... tên bán nước Gia Long đem quân đánh Phú Xuân. Tôi giật mình, sách sử gì mà ngôn từ hạ cấp như vậy? Tôi đòi xem cuốn sách và còn thấy cả tên cướp nước Triệu Đà. Triệu Đà chết đã hơn hai ngàn năm nay cũng bị vạ lây, bởi vì lúc đó hai chế độ cộng sản Việt nam và Trung Quốc đang xung đột. Để ý đến cách dạy sử lúc đó, tôi phải phẫn nộ. Hình như Việt nam chỉ mới thực sự thành lập từ khi có đảng cộng sản.

Những đề tài thi sử thường gặp lúc đó là: Đảng cộng Sản Việt nam thành lập ngày nào, năm nào? Quân Dội Nhân Dân Việt nam thành lập ngày nào, năm nào? Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước năm nào, ở đâu?. Và câu hỏi quan trọng nhất: Ngày 2-9-1945 tại vườn hoa Ba Đình, trước khi đọc tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ đã nói gì? (Câu trả lời là Bác Hồ đã nói: Tôi nói đồng bào có nghe rõ không?).

Sự sửa đổi lịch sử được thể hiện trên thực tế. Tại Sài Gòn, đường Nguyễn Hoàng được thay bằng đường Trần Phú, theo tên một cấp lãnh đạo cộng sản đã chết. Chúa Hiền, người có công khai mở miền Nam, nhường tên đường cho Võ Thị Sáu, một nữ cán bộ khủng bố cộng sản. Đường Gia Long dĩ nhiên không còn, nay là đường Lý Tự Trọng. Vô số công thần lập quốc bị xóa tên đường nhường chỗ cho nhưng cán bộ cộng sản không tên không tuổi. Từ ngày 30-4-1975, nước Việt nam không phải chỉ thay đổi hiện tại và tương lai mà còn thay đổi cả quá khứ.

Lịch sử là gia phả chung của đất nước, là ký ức tập thể của dân tộc xuyên tạc nó là xúc phạm đến trí tuệ của dân tộc. Chưa nói rằng bôi nhọ một người đã nằm xuống từ lâu rồi cho một mục đích giai đoạn là một việc mà chỉ có những kẻ thấp kém mới làm. Làm như thế đang cộng sản cũng đã hạ giá chính cái lý tưởng của họ. Nếu lý tưởng của họ trong sáng, dự án chính trị của họ đặc sắc thì họ cần gì phải vận dụng những thủ đoạn tồi tàn như vậy?

Nhưng một câu hỏi cũng đặt ra cho chúng ta? Tại sao họ lại có thể làm như thế và một phần nào đó đã thành công? Đó là vì chúng ta thiếu một sử quan đứng đắn. Lịch sử của ta thiếu sót và thiếu chính xác, đó là một điều đáng tiếc; nhưng điều còn đáng tiếc hơn nữa là cách tiếp cận lịch sử của chúng ta. Chúng ta không coi lịch sử như một tài sản chung của dân tộc mà mọi người phải trân trọng. Từ bao đời rồi lịch sử vẫn chỉ được coi là một diễn đàn để hạ nhục đối phương và tâng bốc mình lên. Tập quán đó dần dần ăn rễ vào tâm lý mọi người, trong tiềm thức chúng ta. Chúng ta không coi việc xuyên tạc lịch sử là nghiêm trọng, chúng ta không coi lịch sử là ký ức của những cố gắng dựng nước, trái lại chúng ta coi lịch sử như là sự nối tiếp nhau của những trận đánh tàn phá đất nước. Chúng ta đọc lịch sử một cách sơ sài và dựa vào lịch sử để đưa ra những phê phán hồ đồ nhưng chắc nịch. Các dân tộc khác có thể chia rẽ vì không đồng ý với nhau trên nhưng việc cằn làm cho hôm nay và ngày mai; người Việt nam lại còn có thể chia rẽ và hận thù nhau vì những chuyện đã hoàn toàn thuộc về quá khứ mà mọi người chỉ biết một cách rất mơ hồ.

Cho những người đã nằm xuống

Một thảm kịch vẫn còn chia rẽ trầm trọng trong người Việt nam với nhau là việc cấm đạo. Con số nạn nhân thực sự là bao nhiêu không ai biết. Một số nhà nghiên cứu đưa ra ước lượng trên một trăm ngàn.

Họ đã bị giết không phải vì đã phạm vào một tội ác nào mà chỉ vì đã theo một tín ngưỡng không được triều đình chấp nhận, dù tín ngưỡng ấy không xúi giục họ làm điều gì bạo ngược mà chỉ dạy họ công bình, bác ái. Có khi sự sống và sự chết được quyết định một cách giản dị: ai chịu bước qua thánh giá để chứng tỏ mình đã phủ nhận tín ngưỡng Công Giáo thì được sống, ai không chịu thì bị dẫn thẳng ra pháp trường. Và khoảng một trăm ngàn người Công Giáo đã chịu chết để giữ tín ngưỡng của mình. Họ đã chết một cách hiền lành không chống trả, chết trong lời cầu nguyện. Việc bách hại người Công Giáo đã là một vết nhơ khó tẩy xóa trong lịch sử Việt nam. Đó là sự kiện chính nhà nước Việt nam, chứ không phải một đoàn quân xâm lược nào, đã tàn sát một số lớn những người Việt nam hoàn toàn vô tội. Thảm kịch còn lớn hơn nữa vì nhà nước đó biết họ vô tội nhưng vẫn giết họ. Điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay chưa có một chính quyền Việt nam nào, nhân danh sự liên tục của quốc gia, tổ chức một ngày để xin lỗi những người Công Giáo về sự sai lầm kinh khủng đó. Phải chăng là vì các chính quyền không ý thức được cuộc sống liên tục của một quốc gia và do đó không cảm thấy có trách nhiệm về những gì những người cầm quyền trước mình đã làm? Hay vì một hành động long trọng như vậy sẽ không khỏi đặt ra những vấn đề lớn cho một chính quyền tự mình cũng cảm thấy tay có nhúng chàm? Chính quyền cộng sản hiện nay cũng đưa ra vô số biện pháp chèn ép các tôn giáo. Tài liệu Quan điểm và cuộc sống của Nguyễn Hộ, được phổ biến năm 1994, còn tố giác chính đảng cộng sản Việt nam đã tập trung những người theo đạo Cao Đài tại Củ Chi, tàn sát họ và chôn tập thể. Ông Nguyễn Hộ là tư lệnh phó quân đội cộng sản khu vực Sài Gòn bao gồm Củ Chi hồi năm 1946 lúc xảy ra vụ tàn sát này nên những điều ông nói ra chỉ có thể đúng sự thực. Một điều cũng rất đáng ngạc nhiên là cho tới nay tập thể người Công Giáo chưa bao giờ chính thức đòi các chính quyền Việt nam phải giải oan, phục hồi danh dự và nhận lỗi với những nạn nhân. Họ tự thấy quá cô đơn, hay họ thấy không còn ràng buộc lắm với đất nước này nên không thấy cần phải đòi hỏi như vậy? Nhưng đó là một việc phải làm và sẽ phải làm một cách rất long trọng. Mọi người đều hiểu như vậy, và vì không muốn làm hay không thể làm, nhiều người đã thoái thác bằng một thái độ cực kỳ tệ hại là tiếp tục bào chữa cho việc cấm đạo, tiếp tục bào chữa cho việc tàn sát người Công Giáo, tiếp tục bôi nhọ ký ức của những người đã chết oan và tiếp tục gây chia rẽ trầm trọng trong dân tộc. Thái độ thiếu lương thiện này lại gây ra một số nạn nhân khác: có những người nhẹ dạ đã thực sự bị lường gạt vì những luận diệu dối trá ấy và thực sự ghét người Công Giáo. Tôi đã từng được nghe nhắc lại không biết bao nhiêu lần là đạo Công Giáo do thực dân Pháp đem đến, trong khi sự thực là đạo Công Giáo đã được các giáo sĩ Tây Ban Nha và Hòa Lan truyền sang nước ta từ sau thế kỷ 16 trong khi người Pháp chỉ đến vào giữa thế kỷ 19, nghĩa là ba thế kỷ sau. Hơn nữa, tỷ lệ người Việt nam theo đạo Công Giáo vào cuối thế kỷ 17 trước khi có việc cấm đạo được ước lượng là xấp xỉ 10%. Sự xâm lăng và thống trị của người Pháp làm cho tỷ lệ người Việt nam theo đạo Công Giáo giảm đi chứ không tăng lên.

Năm 1989, khi vụ Phong Thánh cho 117 thánh tử đạo tại Việt nam đang sôi nổi, tòa báo Thông Luận chúng tôi nhận được một thư độc giả. Lá thư, bằng một giọng điệu hằn học và miệt thị, kể lại việc quân Pháp đánh thành phố Hải Dương, trong đó chỉ có 15 người lính Pháp và cả trăm người Công Giáo đi theo gánh gạo, vác đạn, v.v... Không một lời về việc bách hại hàng trăm ngàn người Công Giáo vô tội

Năm 1993, Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận mời cụ Nguyễn Huy Bảo phát biểu trong một cuộc họp về đề tài Dân Việt nam có thể có dân chủ được không?. Đề tài đó không phải là tất cả buổi họp. Mỗi sinh hoạt của Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận gồm ba phần. Phần đầu về kiểm điểm nội dung những số báo Thông Luận từ kỳ họp trước đến nay; phần thứ hai hoặc thảo luận về một đề tài hoặc thảo luận về một vấn đề chính trị có tính thời sự, phần thứ ba là sinh hoạt thân hữu, trong đó các thân hữu tự do trình bày những gì mình đã làm, những gì một thân hữu khác đã làm, những gì mình có ý định làm và tìm người hợp tác. Các thân hữu có xuất bản sách thường đem sách của mình tới giới thiệu và bán trong phần này. Bài thuyết trình của cụ Nguyễn Huy Bảo nằm trong phần thứ hai.

Cụ Bảo có đề cập tới chính sách thủ cựu của các vua quan nhà Nguyễn, trong đó có việc cấm đạo, như là những sai lầm đã khiến Việt nam lỡ mất một cơ hội canh tân với hậu quả tai hại. Chằng có gì là quá khích và lố lăng trong bài thuyết trình. Nhưng như thế cũng đã đủ để ngay khi cụ vừa dứt lời, một thanh niên vẫn thường hay lui tới câu lạc bộ đùng đùng nỗi giận đứng lên bất chấp cả chủ tọa to tiếng mạt sát cụ Bảo bằng những lời lẽ nặng nề, bất chấp cả tinh thần trang trọng của buổi họp, bất chấp cả sự kính trọng tối thiểu mà lễ giáo Việt nam vẫn dành cho người lớn tuổi (cụ Bảo lúc đó đã 85 tuổi). Những công thức chế tạo sẵn đua nhau tuôn chảy: Ông là một sản phẩm của thực dân Pháp, Bài thuyết trình của ông là của một con người đã chối bỏ tổ tiên... , Ông lập lại những luận điệu phản quốc, những lập luận của bọn giáo sĩ cướp nước, v.v... Tôi làm chủ tọa buổi họp hôm đó và tôi đã phải quả quyết cắt lời anh ta. Anh ta biết tôi và vẫn dành cho tôi một sự kính trọng nào đó không biết sự kính trọng đó bây giờ còn hay không vì sau đó không thấy anh ấy lui tới câu lạc bộ nữa. Tôi ôn tồn nói với anh ta là không có ý kiến nào cấm nêu ra và không có đề tài nào cấm bàn đến, anh ta đừng sợ sẽ không được phát biểu hết ý kiến của mình, nhưng phải tôn trọng chủ tọa và cũng phải tôn trọng tinh thần thảo luận của câu lạc bộ là mọi trao đỏi phải có sự tương kính. Rồi tôi lại trao lời cho anh nói tiếp. Có lẽ tự thấy mình đã quá lời, anh ta xin lỗi vì đã dùng lời lẽ quá nặng nhưng giải thích: Xin quí vị thông cảm cho, vì dân tộc tôi đã đau khổ quá nhiều vì bọn giáo sĩ tới làm do thám cho thực dân cướp nước, vì những tên Việt gian bỏ đất nước đi theo bọn giáo sĩ. Tôi phải tố cáo bọn giáo sĩ, tố cáo mưu đồ cướp nước của Vatican... . Lời xin lỗi đồng thời cũng là một lời thóa mạ. Sau buổi họp, ra ngoài gặp tôi, anh ta vẫn còn hậm hực: Tôi phải vạch mặt lên này (cụ Bảo), hắn là một tên giáo sĩ. Giáo sĩ đối với anh ta là một từ ngữ rất nặng, tự nó đã có tính mạt sát rồi. Tôi không giận anh ta, vì cái tập quán thù ghét thậm tệ người khác dựa trên những sự kiện mà chỉ cần bình tĩnh một chút cũng đủ thấy là rất sai là một đặc tính của người Việt nam. Tôi vẫn có cảm tình với anh ta. Xuất thân là một người lao động vượt biên sang Pháp, ngoài việc làm ăn anh ta còn dành rất nhiều thì giờ để học hỏi. Anh ta đọc rất nhiều sách và tỏ ra có quan tâm với tương lai đất nước. Càng có cảm tình với anh bao nhiêu tôi càng giận những người trí thức thiếu lương thiện đã đầu độc những tâm hồn nhẹ dạ. Anh ta có kể cho tôi nghe một số sách mà tôi có đọc qua.

Đó là những cuốn sách viết úp úp mở mở, gom lọc tài liệu với dụng ý rõ rệt là tạo cho độc giả một ngờ vực rằng việc truyền bá đạo Công Giáo ở Việt nam nằm trong âm mưu thôn tính Việt nam của Pháp. Tôi không thể nhìn thấy một sự xứng đáng nào trong những cố gắng đó. Chúng chỉ tố giác sự thấp kém của các tác giả. Họ hận thù vì thành kiến, rồi chính hận thù làm cho tâm hồn họ bị vẩn đục và trí tuệ họ bị mê muội. Với thời giờ bỏ ra nghiên cứu như vậy, nếu đừng để cho hận thù làm mù quáng đi, họ đã thấy là không làm gì có một âm mưu thôn tính Việt nam, chưa nói tới một âm mưu với sự đồng lõa giữa Vatican và chính quyền Pháp. Mà tại sao Vatican lại đồng loã với Pháp mà không đồng lõa với ý, Bò Đào Nha hay Tây Ban Nha? Những ai nghiên cứu phong trào thực dân trong ba thế kỷ 17, 18 và 19 đều biết rằng phong trào này chủ yếu là do các công ty tư nhân đi tìm lợi nhuận. Không làm gì có một ý chí chính trị của các nước châu Âu nói chung và Pháp nói riêng để chiếm đóng các nước châu á cả (trong một bài sau chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về vấn đề này). Chính quyền Pháp đã bị đẩy tới chỗ phải can thiệp vào Việt nam dưới áp lực của dân chúng sau khi những đợt bách hại người Công Giáo gây ra xúc động quá lớn.

Tôi càng không hiểu tại sao, trong lúc này và tại hải ngoại, vẫn có những người cố gắng bôi nhọ người Công Giáo bằng những tài liệu xuyên tạc hạ cấp kiểu Tây Dương Gia Tô Bí Lục. Đề làm gì? Đáng buồn nhất là một số người lại còn gần liền sự phát triển của Phật Giáo với sự bài xích Thiên Chúa Giáo. Phật Giáo Việt nam không mạnh thêm, mà còn có thể bị hoen ố đi vì những Phật tử như thế.

Lý do chính khiến cho vết thương cấm đạo vẫn còn rưóm máu cho tới nay là vì chúng ta vẫn chưa tìm được cách đọc lịch sử. Điều đau nhức nhất trong thảm kịch cấm đạo là có những người Việt nam thực sự yêu nước, thực sự dũng cảm đã tham gia tích cực vào việc tàn sát và nhục mạ những người Công Giáo vô tội. Tôi muốn nói tới những phong trào Văn Thân và Cần Vương. Chắc chắn là trong động cơ thúc đẫy họ có lòng yêu nước, nhưng sự cuồng tín tôn thờ Nho Giáo của họ còn mạnh hơn. Họ đã giết người Công Giáo bởi vì họ thực sự tin rằng người Công Giáo đã bỏ đạo lý của ông cha, đi tôn thờ một tà đạo của người phương Tây mà lúc đó họ gọi là bọn quỷ trắng. Một người Việt nam đã theo đạo Công Giáo thì không còn là đồng bào của họ nữa, mà chỉ còn là một tâm hồn đã bị quỷ ám cần phải tiêu diệt. Các phong trào Cần Vương và Văn Thân có lẽ đã chỉ giết vài người lính Pháp, nhưng họ đã giết hại hàng chục ngàn tinh mục và giáo dân Việt nam. Họ mù quáng, thiển cận, có tội lớn mà không có công nào. Họ chỉ cố gắng bảo vệ một cái quá khứ hủ lậu cần phải vất bỏ đi: Nhưng họ là những người có chí khí, có can đảm. Họ nằm trong truyền thống của đất nước và của ông cha, nên chúng ta chỉ có thể buồn vì sự mù quáng của họ, chứ không thể ghét họ được. Do đó chúng ta bối rối, rồi để có thể tôn vinh họ, chúng ta biện hộ cho việc họ làm, đỗ tội cho những người Công Giáo vô tội đã nằm xuống.
Đó cũng là vì ta không biết đọc lịch sử. Đó cũng là vì ta không tìm ra được cách nào để yêu quí tổ tiên của ta. Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ, Nguyễn ánh, Văn Thân và Cần Vương, và cả những người Công Giáo đã nằm xuống; những anh hùng lập quốc cùng những người đã có tội, những người can đảm cũng như những người hèn nhát, tất cả đều là tổ tiên của ta. Chúng ta không chối bỏ được gia phả. Những người đã có tấm lòng như Văn Thân và Cằn Vương, chúng ta vẫn có thể quí mến họ, nhưng khi họ nhảm nhí thì phải nói là họ nhảm nhí, chứ sao lại đổi trắng thay đen? Đâu phải vì chúng ta quí trọng những người Cần Vương, Văn Thân mà nhất định chúng ta phải quí trọng ngay cả những sai quấy của họ và thù ghét những người Công Giáo mà họ đã thù ghét? Nhất là họ thù ghét một cách xằng bậy và hành động một cách càn dỡ?

Nguyễn Khắc Viện, một trí thức cộng sản đã đóng góp nhiều nghiên cứu có giá trị, đã viết về vụ phong Thánh như sau: Dầu sao thì chúng tôi cũng không thể chối bỏ các vị tiền bối Văn Thân của chúng tôi. Ông ta cũng đặt nghi vấn là có sự liên kết của người Công Giáo với quân Pháp. Hai chữ dầu sao nói lên bối rối của ông ta. Nhưng ông Nguyễn Khắc Viện làm tôi thất vọng về sự tầm thường của một trí thức như ông. Ai bắt ông phải chối bỏ các vị Cần Vương và Văn Thân? Tại sao lại phải chối bỏ? Có phải vì họ đã mù quáng giết người Công Giáo mà chúng ta phải chối bỏ họ không? Có phải khi ông cha ta làm điều gì sai thì không còn là ông cha ta nữa không? Nếu lý luận như vậy thì phải coi chừng chúng ta mất gia phả.

Một lần cho tất cả, phải khẳng định sự vô tội của người Công Giáo. Không làm gì có âm mưu nào trong việc truyền giáo tại Việt nam. Những giáo sĩ tới Việt nam chỉ để truyền đức tin Ki-tô mà thôi và các giáo dân đã theo đạo cũng chỉ vì đức tin Ki-tô. Các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi các vua nhà Nguyễn, thủ phạm của cuộc cấm đạo đẫm máu, ít ra cũng lương thiện hơn những học giả biện bạch cho họ. Các dụ cấm đạo chỉ buộc tội người Công Giáo theo một là đạo mà thôi, không bao giờ buộc thêm cho người Công Giáo một tội nào khác cả. Việc cấm đạo đã bắt đầu ở ngoài Bắc dưới chúa Trịnh Tráng để rồi đạt tới cao diễm dưới thời Trịnh Doanh; ở miền Nam ngay dưới thời Nguyễn Hoàng, rồi tiếp tục qua mọi đời chúa dù không gay gắt bằng. Đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, việc cấm đạo cũng chỉ ngừng lại ở thời Gia Long. Minh Mạng lên ngôi là lập tức cấm đạo, tiếp tục qua Thiệu Trị và đạt cao điểm dưới thời Tự Đức. Sau cùng chính vua Tự Đức cũng nhận ra sự sai lầm của mình và ra một dụ bỏ việc cấm đạo, kêu gọi Văn Thân thôi bách hại người Công Giáo với lời lẽ trầm thống, chứng tỏ một sự hối hận rất chân thành.

Có người viện dẫn một số tài liệu của Bộ Hải Quân Pháp để chứng minh có sự toa rập giữa các giáo sĩ và chính quyền Pháp. Nhưng các giáo sĩ đã truyền giáo trong điều kiện khó khăn tất nhiên phải có sự giao dịch với các thế lực có ảnh hưởng tới Việt nam lúc đó. Những người bị bách hại tất nhiên phải tìm chỗ dựa. Điều này cũng tự nhiên như ngày nay chúng ta vận động các chính phủ dân chủ và các tổ chức nhân đạo bênh vực cho những người dân chủ gặp khó khăn tại Việt nam. Mặt khác, đừng quên là các giáo sĩ cũng đã làm nhiều khuyến cáo và đề nghị với chính các vua nhà Nguyễn để hy vọng giúp Việt nam canh tân và mạnh lên, chỉ tiếc là họ đã không được nghe vì vua quan nhà Nguyễn quá thủ cựu. Nhiều người Công Giáo Việt nam, giáo sĩ cũng như giáo dân, mặc dầu bị ruồng rẫy, tù tội, hạ nhục vẫn cố hết sức tìm cách giúp các vua nhà Nguyễn cải tổ để đưa đất nước đi lên dù chỉ gặp sự dửng dưng của vua quan nhà Nguyễn. Nếu những bài điều trần của Nguyễn Trường Tộ lọt được tai vua quan nhà Nguyễn thì đất nước chúng ta đây không như ngày nay.

Điều đáng ngạc nhiên chính là sự nhẫn nại của người Công Giáo. Mặc dầu bị bách hại đẫm máu họ đã không vùng lên chống lại chính quyền, trong khi đó là một phản ứng tự vệ rất bình thường. Nhà Nguyễn phá kỷ lục về giặc giã: các tay anh chị nổi lên khắp nơi tại miền Bắc, có khi để chống sưu cao thuế nặng, có khi để đòi lập lại nhà Lê, có khi chỉ vì lý do giản dị là quan quân quá yếu. Người Công Giáo ở miền Bắc lúc đó rất đông đảo chiếm hơn 10% dân số, lại rất tập trung và rất gắn bó. Nếu họ nổi loạn, nhờ người Pháp huấn luỵện và giúp khí giới, họ đủ khả năng đánh bại được quân nhà Nguyễn lúc đó rất suy yếu về cả vật chất lẫn tinh thần. Một viên thiếu úy với bảy tên lính Pháp đã có thể nghênh ngang vào tính Ninh Bình, bắt tất cả tuần phủ, án sát trói lại, tịch thu mấy chục khẩu đại bác, bắt quân Việt nam hạ khí giới quì hai bên đường. Người Công Giáo, nếu muốn, thừa sức đánh bại thứ quân đội vô dụng đó. Nhưng họ vẫn chịu đựng thà chết vì đức tin chứ không nổi loạn. ở vào thời buổi đó, đâu đâu cũng có nỗi loạn, nhưng những người Công Giáo, có lý do nhất và có khả năng nhất để nỗi loạn, lại không nỗi loạn.

Cái gì đã khiến người Việt nam theo đạo Công Giáo đông đảo như vậy? Đó chính là thông điệp Ki-tô. Vào thời buổi nhiễu nhương, con người chà đạp và chém giết lẫn nhau, còn gì an ủi hơn là được nghe một thông điệp hòa bình, bác ái, là được nghe những lời nhắn nhủ ai thương xót người ấy là phúc thật, ai chịu khốn khổ vì lẽ phải ấy là phúc thật? Đạo Công Giáo đã được sự hưởng ứng mạnh mẽ của những người cùng khổ. Cũng như Phật Giáo, và khác với Nho Giáo, đạo Công Giáo đã đến với dân tộc Việt nam không phải qua giai cấp thống trị, mà qua giai cấp bị chà đạp. Dụ cấm đạo của vua Minh Mạng nhận định các giáo sĩ đã lôi kéo bọn bần dân mạt hạng.

Người Công Giáo nhẫn nại và chịu đựng nhưng thừa sự dũng cảm. Họ sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đức tin của họ. Sự dũng cảm của họ nổi bật vào một lúc mà sự nhút nhát là tâm lý chế ngự. Quan quân cứ nghe vài tiếng súng là vất gươm súng mà chạy. Chính những người Công Giáo tử đạo đã cho tôi niềm tin vững chắc vào dân tộc Việt nam: nếu có một lý tưởng trong sáng, người Việt nam có thể rất dũng cảm và chấp nhận những hy sinh rất to lớn. Sau này, một chính quyền sáng suốt của đất nước Việt nam dân chủ sẽ phải để ra một ngày lễ phục hồi danh dự cho những người Công Giáo đã tử đạo. Đó là điều chúng ta cần làm để hòa giải cộng đồng Công Giáo với cộng đồng dân tộc, để hàn gắn một vết thương rất đau nhức, một trang sử bi đát của dân tộc ta. Chúng ta cũng sẽ phải có những ngày tưởng niệm cho những người đã chết oan trong những cuộc chiến vừa qua, những nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất những người đã chết trong chiến dịch Phượng Hoàng, hay đã bị bắt cóc ám sát, những người đã bỏ mình trên biển cả trong khi chạy trốn chế độ cộng sản. Chúng ta cần khép lại những vết thương đau, những trang sử bi đát của dân tộc, để có thể nhìn lại nhau là anh em ruột thịt và cùng bắt tay nhau xây một tương lai Việt nam chung.

Chấp nhất kỷ chi kiến

Giai đoạn Pháp đánh chiếm Việt nam là một giai đoạn lịch sử có tài liệu khá đầy đủ nhưng lại là giai đoạn khó học nhất. Hồi còn là học sinh tôi rất chán học giai đoạn này, dù khá mê sử. Lý do là vì chán nản quá. Chỉ thấy tháng này bị thua to ở chỗ này, tháng tới bị đại bại ở chỗ khác. Năm này mất tỉnh này, năm sau mất tỉnh khác. Và thua một cách rất nhục nhã. Năm 1772, Francis Garnier đem 170 lính tới Hà Nội, yết bảng bãi bỏ luật lệ nước ta, ban hành luật của riêng mình, các quan quân cũng không dám phản ứng. Đã thế cũng chưa yên, Garnier còn bắt Nguyễn Tri Phương đầu hàng vô điều kiện, phải tự đến nộp mình. Nguyễn Tri Phương không chịu, Garnier đánh thành, chỉ trong chớp nhoáng là xong, mấy ngàn quân Việt vất vũ khí mà chạy. Các tướng Việt, người chết, người bị bắt sống. Kế đó một thiếu úy Pháp đem bảy người lính tới chiếm Ninh Bình, quan quân đem lọng ra đón xin hàng, các quan bị bắt trói, quân đội phải quì xuống hạ khí giới. Chỉ lúc đã trưởng thành tôi mới có đủ kiên nhẫn và chịu đựng để đọc lịch sử về giai đoạn này. Bây giờ đã ngoài năm mươi tuổi, đã đọc đi đọc lại nhiều lần, mà mỗi lần đọc vẫn thấy nhục nhã quá chừng.

Tinh hình nguy ngập như vậy, nhưng các vua quan nhà Nguyễn hoàn toàn không ý thức được. Họ hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài cũng như về tình hình bi đát của đất nước. Bất lực và thờ ơ trước cuộc xâm lăng từ bên ngoài bao nhiêu họ tỏ ra quan tâm và hiệu lực bấy nhiêu trong việc cấm đạo. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức rất ít khi ra khỏi thành phố Huế, trừ một vài lần ngự giá đi săn.

Quân Pháp bắt đầu thực sự đánh chiếm Việt nam từ năm 1858. Họ đánh chiếm Đà Nẵng, sau đó vào chiếm miền Nam, rồi ra đánh Bắc Việt, áp đặt nền đô hộ vào năm 1883.

Cuộc chinh phục đã kéo dài 25 năm. Thời gian đó tương đối dài, không phải vì do sức kháng cự mạnh mẽ của Việt nam mà vì sự do dự của nước Pháp. Nếu quả thực có quyết tâm muốn chiếm Việt nam, có lẽ người Pháp không cần quá một năm. Sức kháng cự của quân Việt nam không đáng kề. Cần đính chính một quan điểm rất phổ biến nhưng rất sai là nước Pháp, cũng như mọi đế quốc thực dân châu Âu trong thế kỷ 19, có âm mưu khuất phục và chiếm đóng Việt nam. Sở dĩ chúng ta dễ nghĩ hoặc tin như vậy là vì chúng ta quen với lịch sử châu á trong đó mọi chinh phục đều do các nhà nước khởi xướng và thực hiện. Nhưng đó không phải là tình trạng của châu Âu. Các nước châu Âu quả nhiên đã tranh giành nhau chiếm đóng châu Mỹ vì họ coi đó là phần đất vô chủ mạnh ai nấy chiếm. Nhưng chính sách của họ đối với châu á lại khác. Việc chinh phục châu á chủ yếu do các công ty tư phát động. Các công ty này chỉ có đủ lực lượng để chiếm những phần đất chưa có chủ quyền, như tại ấn Độ, Mã Lai, Indonesia. Việc Tây Ban Nha chiếm Phi-líp-pin là một ngoại lệ, nhưng Phi-líp-pin là một quần đảo vô chủ vào lúc đó. Các chính quyền châu Âu không có chính sách khuất phục và chiếm đóng các nước đã có tổ chức nhà nước. Cùng lắm họ chỉ can thiệp để bảo vệ các hoạt động thương mại hay truyền giáo, và ngay trung trường hợp này họ cũng rất thận trọng. Họ thường liên kết với nhau chứ không ra tay một mình. Nói chung họ nhắm tìm thị trường và thường cố thỏa hiệp để tránh chiến tranh và thiệt hại. Việc Pháp đánh chiếm Việt nam là một ngoại lệ lớn mà nguyên nhân là chính quyền nhà Nguyễn vừa quá ngoan cố lại vừa quá yếu.

Lý do chính khiến người Pháp đánh chiếm Việt nam là việc cấm đạo, lý do phụ là Pháp muốn bành trướng thương mại tại Viễn Đông. Cũng vì lý do chính khiến người Pháp chiếm Việt nam là do chính sách cấm đạo mà cho tới nay nhiều người ghét đạo Công Giáo, vẩn đỗ tội cho đạo Công Giáo đã làm Việt nam mất nước. Đó là một luận điệu rất ngây ngô. Cấm đạo là một chính sách xằng bậy, tàn sát dã man người Công Giáo là một tội ác đối với loài người. Nhà Nguyễn làm bậy để mất nước là lỗi tại nhà Nguyễn, sao lại buộc tội người Công Giáo, chỉ là nạn nhân mà thôi? Nếu chúng ta không thích người hàng xóm, xách súng sang giết họ rồi bị đi tù thì có thể đổ lỗi rằng vì người hàng xóm mà mình bị đi tù được không?

Nối rằng lý do chính là cấm đạo cũng chưa đúng. Phải nói rằng lý do chính là sự ngoan cố quá đáng và sự tàn nhẫn quá đáng trong việc cấm đạo thì đúng hơn.

Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820, thì năm 1825 ra dụ cấm đạo Lúc này nước Pháp hoàn toàn vắng mặt tại Việt Nam và còn đang khốn đốn vì xung đột nội bộ và những tàn phá do những cuộc chiến thảm khốc của Napoléon I để lại. Lý do cấm đạo trong dụ là đạo Phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục. Cùng năm ấy, một dụ cấm đạo khác gay gắt hơn nữa được ban hành và kèm thêm biện pháp treo giải thưởng cho những ai bắt được giáo sĩ đem nộp. Chính biện pháp này đã gây ra một phong trào bắt đạo và giết đạo tại khắp nơi. Chia rẽ lương giáo bắt đầu trầm trọng từ đó. Hận thù trong dân tộc tăng cao. Bắt đạo và giết đạo trở thành một phong trào dân gian, cho nên sau các hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giấp Tuất (1874), mặc dù triều đình chấp nhận không cấm đạo nữa nhưng các phong trào Văn Thân vẫn đi đánh phá các làng Công Giáo. Vua Minh Mạng tỏ ra rất ngây thơ khi sai một phái bộ sang Pháp yêu cầu Pháp ngừng việc truyền giáo tại Việt Nam. Làm sao chính quyền Pháp có thề thỏa mãn yêu cầu vô lý này?

Việc cấm đạo tiếp tục qua thời Thiệu Trị rồi trở nên đặc biệt gay gắt dưới thời Tự Đức. Vua Tự Đức vừa lên ngôi năm 1848 là ra ngay một dụ cấm đạo, và năm 1851 lại có thểm một dụ cấm đạo khác khắc nghiệt hơn nữa. Mải tới năm 1862, sau khi phải ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, triều đình nhà Nguyễn mới chính thức công nhận quyền giảng đạo và theo đạo.
Tuy triều đình chấp nhận ngoài mặt như vậy nhưng việc cấm đạo vẫn tiếp tục trên thực tế do các nhóm Văn Thân chủ trương. Sau hiệp ước Giáp Tuất, vua Tự Đức phải ra dụ truyền cho đảng Văn Thân không được giết hại giáo dân nữa, nhưng họ vẫn tiếp tục, bất chấp cả lệnh vua. Việc cấm đạo đã tạo ra một cuộc nội chiến giữa các toán quân Văn Thân đánh phá các làng đạo và dân Công Giáo cố thủ để tự vệ.

Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo năm 1825 đến năm 1858, khi Pháp bắt đầu đánh Việt nam, 33 năm đã trôi qua. Trong thời gian ấy người Pháp, và cả người Tây Ban Nha, tuy rất bất bình về việc cấm đạo vẫn còn do dự không muốn gây chiến với Việt nam. Các tài liệu của người Pháp về giai đoạn này khá đầy đủ và cho thấy chính phủ Pháp đã chịu rất nhiều áp lực của dư luận Pháp, phẫn nộ trước việc cấm đạo và đòi can thiệp.

Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã đem một chiến thuyền tới làm áp lực gay gắt đòi bỏ dụ cấm đạo, nhưng rồi lại đi dù không kết quả. Tuy vậy, năm 1856, chính phủ Pháp chỉ cử chiến hạm Catinat đến đòi bỏ dụ cấm đạo. Vua quan ta không chịu tiếp. Tàu Catinat bắn phá Đà Nẵng cảnh cáo rồi bỏ đi. Mấy tháng sau, họ lại quay lại xin bỏ cấm đạo, quan quân nhà Nguyễn đã không coi sự cảnh cáo trước đây là nghiêm trọng còn lên mặt đòi Pháp phải xin lỗi. Họ xin lỗi, nhà Nguyễn vẫn cứ tiếp tục cấm đạo. Vào lúc đó, người Pháp nhận thấy rằng không còn giải pháp nào khác: hoặc họ phải để nhà Nguyễn tiếp tục tàn sát người Công Giáo trước sự công phân ngày càng lẽn cao của dư luận quần chúng Pháp, hoặc họ phải dùng võ lực thực sự. Việc dùng võ lực vừa dễ vì nhà Nguyễn tuy hung bạo nhưng lại không có lực lượng nào đáng kể lại vừa phù hợp với quyền lợi thương mại của Pháp nên cuối cùng Pháp đi đến quyết định đánh Việt nam.
Năm 1858, Pháp liên kết với Tây Ban Nha đem chiến thuyền bắn phá và đổ bộ đánh chiếm Đà Nẵng rồi sau đó quay vào Nam đánh chiếm Nam Kỳ. Năm 1860, tình hình đã nguy ngập lắm, Pháp đang đánh Nam Kỳ mà vua Tự Đức vẫn chỉ lo cấm đạo. Lại một dụ khác. Lần này nhà Nguyễn ra lệnh phá tất cả các làng Công Giáo, bắt giáo dân thích hai chữ tà đạo vào mặt rồi phân phối đi các làng khác. Cứ năm người không có đạo được cử canh giữ một người có đạo. Thế rồi năm 1862 triều đình phải ký hiệp ước nhường đứt ba tỉnh miền Đông và đảo Côn Lôn cho Pháp, phải bỏ dụ cấm đạo và bồi thường chiến tranh nặng nề cho Pháp.

Chẳng bao lâu sau, Pháp lấy nốt ba tỉnh miền Tây Nam Phan. Sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn đã làm mất đi miền trù phú nhất của đất nước.
Dù đã bị thiệt hại nặng nề, vua quan nhà Nguyễn vẫn chưa sáng mắt ra để nắm lấy một hy vọng cuối cùng. Nước Pháp, sau khi chiếm được Nam Kỳ, đã thỏa mãn và có ý ổn định tình thế ở đó. Năm 1872, có vụ Francis Garnier ra Bắc lộng hành rồi bị quân Cờ Đen giết chết, nhưng việc đó không nằm trong chính sách can thiệp của chính phủ Pháp. Nước Pháp muốn hòa nên đã ký với triều Nguyễn hiệp ước Giáp Tuất (1874), với những điều khoản tương đối có lợi cho Việt nam, trong đó có cả không điều khoản giúp cho Việt nam 5 chiến hạm với đầy đủ súng đạn và 1.000 khẩu súng. Pháp còn cam kết gởi huấn luyện viên giúp Việt nam đào tạo quân đội.

Chỉ cần sáng suốt một chút thôi triều Nguyễn đã phải hiểu rằng mình hoàn toàn không đủ sức để chống lại với Pháp, chọn lựa duy nhất là khai dụng triệt để hiệp ước Giáp Tuất để gia tăng sức mạnh, khi nào có sức mạnh rồi mọi việc sẽ trở thành dễ dàng, kể cả việc lấy lại Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nguyễn lại phá hoại hiệp ước Giáp Tuất, kiếm đủ cách để làm khó dễ. Đến sứ thần Pháp xin yết kiến vua mấy lần cũng không cho. Để rồi di đến đâu? Chín năm sau (1883) phải ký hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ, và từ đó ngay việc lên ngôi của vua cũng phải được Pháp cho phép và tấn phong. Nước ta hoàn toàn mất chủ quyền. Ngôi vua của nhà Nguyễn chỉ còn là hư vị.

Ai đọc những trang sử này mà không thấy giận cho sự mù quáng kinh khủng của vua quan nhà Nguyễn? Vua quan chỉ biết ngâm vịnh, kiến thức không ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nghiêu Thuấn, Xuân Thu, Tam Quốc. Sử gia Trần Trọng Kim than: Việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại rồi cứ nghễu nghện xưng mình là hơn người, cho thiên hạ là dã man? Biết bao nhiêu người đã dâng sớ canh tân mà không được nghe, thấy nước mất chắc chắn mà không làm gì được. Ngày nay nhớ lại quãng thời gian đó ta cũng không khỏi bùi ngùi cho những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều, Nguyễn Hiệp, Lê Đình, Phan Liêm, Bùi Viện. Có lẽ họ chết không nhắm mắt được.

Nhưng có phải quả thực là vua quan nhà Nguyễn ngu dốt, hèn nhát như nhiều người vẫn phê phán hay không? Điều đáng buồn là không, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức không phải là những hôn quân, bạo chúa. Trừ những sai lầm trong cách giao tiếp với người Phương Tây, những biện pháp khác của họ không phải là dở. Mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn, văn học của ta chưa bao giờ thịnh bằng thời Nguyễn. ở vào một thời đại khác, các vị vua ấy, nhất là vua Tự Đức, có thể đã là những bậc anh quân.

Nhà Nguyễn cũng không thiếu những bầy tôi có tài lương đống: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Kế Viêm, Phạm Đăng Quế, Nguyễn Đình Giản, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Trần Đình Túc, v. v... ở một thời đại khác chắc các vị này đã để tên trong lịch sử như những con người lỗi lạc tận trung báo quốc. Điều đã khiến các vua nhà Nguyễn và các đại thần thất bại là họ không ý thức được rằng thế giới đã thay đổi và họ đang sống trong một khúc quanh lịch sử lớn. Những cố gắng và hy sinh của họ đều đã vô ích chỉ vì không còn hợp thời nữa. Lên án họ là mù quáng, thiển cận thì cũng đúng thôi, nhưng họ có phải là nhưng con người thiển cận một cách bất thường hay không?

Tôi nghĩ là không. Thiển cận và thiếu giác quan về chuyển hóa và thời đại không phải là của riêng họ, mà là một hằng số của chính trị Việt nam. Chúng ta không có tư tưởng, và càng không có tư tưởng chính trị. Và hình như chúng ta vẫn chưa thức tỉnh để nhận ra điều đó.

Các vua quan nhà Nguyễn quả là không hiểu gì về thời thế. Sức mạnh áp đảo của người Pháp đã quá rõ rệt mà họ cứ ngoan cố chống lại và đôi khi còn khiêu khích. Đi từ thất bại này đến thết bại khác phải chấp nhận ngày hôm nay những nhượng bộ bốn lần lớn hơn nhưng gì mà dối phương đòi hỏi ngày hôm qua mà họ vẫn không mở mắt. Nước Tàu đã khốn khó, bị đánh tả tơi mà triều đình Nguyễn vẫn tôn sùng và tin là có thể nhờ cậy được. Giặc ngoài đáng sợ như vậy mà cứ quay về đàn áp những người dân Công Giáo bên trong. Sự thiển cận của họ thật là kinh khủng, nhưng nó cũng khó so sánh được với sự thiển cận của các lực lượng chống cộng hải ngoại sau 1975.

Rõ ràng là sau năm 1975 không thể có giải pháp võ trang nữa nhưng tổ chức nào cũng chủ chiến, cũng hô hào bạo lực. Sự mê muội của triều đình Nguyễn khi trông đợi vào nước Trung Hoa đã suy kiệt có lẽ không lớn bằng sự mê muội của chủ trương tái lập chế độ Việt nam Cộng Hòa đã chết hẳn rồi, và đã chết một cách thực hổ nhục. Thái độ châu chấu đá voi của triều Nguyễn chống Pháp tới cùng xét ra không lố bịch bằng thái độ của những người đã thảm bại và thua chạy nhưng vẫn nhất định đòi những người cộng sản phải tỉnh ngộ quay về với chính nghĩa quốc gia. Vua quan nhà Nguyễn tuy thủ cựu nhưng cũng không ngược đãi những người chủ trương canh tân bằng các lực lượng chống cộng đối xử với những người chủ trương dân chủ đa nguyên, hòa giải và hòa hợp dân tộc, bất bạo động. Nếu vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc đó là canh tân, tôn trọng lự do tín ngưỡng, tránh đụng độ với người Pháp để tập trung mọi cố gắng mà tiến lên và mạnh lên, thì vấn đề của đối lập Việt Nam sau 1975 là phải tận dụng sự thức lỉnh của những người cộng sản tiến bộ để hòa giải với họ và cùng họ hình thành một kết hợp dân chủ mới. Cùng một vấn dề và cũng cùng một thái độ cố chấp. Ngày nay có hơn gì ngày xưa đâu. Chỉ khác ở chỗ các vua quan nhà Nguyễn còn có thể hưởng sự giảm khinh vì họ không được nhìn thấy thế giới bên ngoài.

Chính quyền cộng sản có sáng suốt gì hơn vua quan nhà Nguyễn không? Ngày hôm nay vấn đề là bảo vệ chủ quyền dân tộc, đoàn kết dân tộc để phát triển đất nước. Nhưng họ đã làm gì? Họ đã cố bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin như nhà Nguyễn ngày xưa cố bám vào Nho Giáo. Họ quy luỵ trước một Trung Quốc đang bối rối như các vua nhà Nguyễn quỵ lụy với Thiên Triều đang khốn khổ ngày xưa. Họ bách hại những người dân chủ như các vua Nguyễn ngày xưa cấm đạo. Và họ cũng cấm đạo thực sự. Họ đàn áp Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Họ có khác gì nhà Nguyễn? Có khác chăng là ở chỗ các vua Nguyễn không có đủ phương tiện, không có báo chí, radio, truyền hình, không có các tòa đại sứ ở khắp nơi để thấy được sự thay đổi của thế giới như họ.

Nhưng sự thiển cận không phải là tất cả. Còn một lý do khác khó chấp nhận hơn. Nếu thực sự yêu nước, nếu suy nghĩ một cách lương thiện về quyền lợi của đất nước và chỉ quan tâm tới quyền lợi của đất nước mà thôi, thì đường đi về tương lai không có gì khó, tất cả mọi vấn đề trở thành sáng sủa. Nhưng một lần nữa, phải nhìn nhận ràng đại đa số chúng ta bất chấp đất nước. Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta yêu nước thì thực ra chúng ta đang yêu một cái gì khác. Chúng ta yêu chỗ đứng, quyền lợi hay lòng tự ái của chúng ta. Chúng ta yêu các thành kiến của chúng ta mà chúng ta cho là ý kiến, chúng ta yêu sự cố chấp của chúng ta mà chúng ta tạm coi là sự kiên trì. Chúng ta yêu chính mình và yêu sự mê muội của mình.

Chấp nhất kỷ chi kiến giá họa ư tha nhân, chỉ biết ý kiến mình mà thôi, lúc nào cũng sẵn sàng buộc tội người khác. Câu viết lạc lõng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo vô tình nói lên nhận định của ông về con người Việt nam. Gần sáu thế kỷ đã trôi qua rồi mà sao Nguyễn Trãi vẫn còn đương thời đến thế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét