Nguyễn Trãi

Phần Quân trung từ mệnh tập

( Phần 2 )
27. THƯ CHO ĐẢ TRUNG VÀ LƯƠNG NHỮ HỐT(1)
Kính thư gửi các túc hạ Đả công đô chỉ huy, Lương công đại tham chính, trấn thủ thành Tây-Đô.
Tôi cùng các ngài ngày trước đã có lời giao ước với nhau, trên có trời đất quỷ thần
tưởng đã chứng giám. Nào ngờ ngày nay lại thành sai trái. Nay xét việc đã làm, đều là
vì nước quên mình, không có duyên cớ riêng tây gì cả. Song điều đáng quý ở người quân tử là hiểu thời thông hiếu mà thôi. Vả lại vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại. Từ xưa đến nay, bao giờ cũng thế. Nước An-nam xưa bị Trung-quốc xâm chiếm là từ Tần Hán trở đi. Phương chi trời đã phân cách Nam Bắc, có núi cao sông lớn, bờ cõi rành rành; dẫu mạnh như Tần, giàu như Tùy, nào có thể sính lực được đâu! Vả đem sự thế ngày nay mà bàn, thì như các thành Tân-bình, Thuận-hóa, Nghệ-an, Diễn-châu cùng Tam-giang, Chí-linh Thị-cầu, Xương-giang, Khâu-ôn, Tiền-vệ(2), trong các nơi ấy, những tướng trí dũng, những quan mưu lược, nào phải không có ai, mà thành không phải là không cao, hào không phải là không sâu, lương chứa không phải là không nhiều, quân giữ không phải là không vững, song họ cũng đều đã mở thành cởi giáp, dắt díu vợ con, đến hội với ta, ước định hẹn ngày kéo quân về nước(3). Sao mà các ngài lại cứ nệ giữ thói thường, không thông sự biến, định lấy thành cao vài nhận(4) mà giam hãm những người đi lâu muốn về(5), cho thế là khả dĩ vui sướng qua ngày, mà không đoái đến mấy nghìn tính mệnh. Người nhân giả lại làm thế ư? Nay ta nếu chọn quân sĩ ở Thanh-hóa, Diễn-châu và Tây-đô, chỉ 3, 4 vạn người, kéo đến thừa tiếp ở dưới thành, thì trong khoảng giờ phút, thành sẽ tan tựa tro bay, vỡ như trúc chẻ. Đến lúc bấy giờ, các ngài khối không kịp nữa, muốn bảo toàn tính mệnh vợ con, thật khó lắm thay! Nay cái kế hay hơn cả cho các ngài, chẳng gì sớm bỏ giáp binh, ra ngoài thành cùng quân của Thái đô đốc(6) lục túc kéo về, để trả lại cho ta cảnh thổ nước An-nam, khiến cho hai bên đều tiện, như thế chẳng lại hay ư? Nếu mà không thế thì chẳng làm thế nào được nữa.

(1) Quân Minh trong thành Tây-đô (tức thành Thanh-hóa), đứng đầu là đô chỉ huy Đả Trung và tham chính Lương Nhữ Hốt vẫn ngoan cố chống lại việc giảng hòa rút quân. Lần thứ ba Nguyễn Trãi viết thư dụ hàng và cảnh cáo quân địch.
(2) Những thành quân Minh đóng giữ lúc bấy giờ:

Thành Tân-bình ở Quảng-bình
Thành Thuận-hóa ở Thừa-thiên
Thành Nghệ-an ở Hưng-nguyên, Nghệ-an
Thành Diễn-châu ở Diễn-châu, Nghệ-an
Thành Tam-giang ở Việt-trì, Vĩnh Phú
Thành Chí-linh, ở Chí-linh, Hải-hưng
Thành Thị-cầu ở thị xã Bắc-ninh, Hà-bắc
Thành Xương-giang ở thị xã Bắc-giang, Hà-bắc
Thành Khâu-ôn ở khoảng thị xã Lạng Sơn
Thành Tiền vệ cùng với Tả vệ, Hữu vệ, Trung vệ là những đồn lũy bảo vệ thành Đông-quan. Thành Tiền vệ có lẽ là thành Điêu-diêu (Gia-lâm, Hà-nội).

(3) Thực ra, vào đầu năm 1427, quân Minh trong các thành trên chưa chịu đầu hàng hết.

Tháng 1 năm Đinh mùi (28-1 đến 25-2-1427) thành Tân-bình, Thuận-hóa, Nghệ-an, Diễn-châu, Điêu-diêu lần lượt đầu hàng.

Tháng 2 (26-2 đến 27-3-1427) thành Thị-cầu hàng. Ngày 6 tháng 3 (2-4-1428) thành Tam-giang hàng.

Còn thành Xương-giang, Chí-linh, Khâu-ôn tuy bị vây hãm nhưng quân địch vẫn ngoan cố chống cự. Ở thành Khâu-ôn, một bộ quân quân địch bỏ trốn từ tháng 1, nhưng bộ phận còn lại vẫn cố thủ cho đến khi bị tiêu diệt. Đến tháng 9, quân ta mới hạ được thành Xương-giang, thành Chí-linh cũng như Tây-đô, đến tháng 12 quân địch mới chịu đầu hàng.

Trong thư dụ hàng này, Nguyễn Trãi nói như vậy để uy hiếp tinh thần quna Minh ở thành Tây-đô. Thành này bị quân ta bao vây từ năm 1425 nên mất liên lạc và không nắm được tình hình các thành khác

(4) Người xưa lấy 7 hoặc 8 thước của đời Chu là một nhận.

(5) Chỉ quân Minh trong thành Tây-đô bị vây hãm lâu ngày đang hoang mang muốn đầu hàng để được trở về nước.

(6) Thái đô đốc tức là Thái Phúc.
 
28. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Thư kính gửi Tổng binh quan đại nhân.
Tôi nghe: Thành thực yêu vật là lòng trời đất; thành thực yêu con là lòng cha mẹ. Nếu yêu vật không thành thực, thì cơ sinh hóa có lúc đình; yêu con không thành thực, thì niềm từ ái có khi thiếu. Vì thế nên trời đất đối với muôn vật, cha mẹ đối với con cái, chẳng qua chỉ một chứ “thành” mà thôi. Hôm trước tôi phụng tiếp thư ngài trách tôi “không biết kính thờ trời đất cha mẹ”. Song đem những việc ngài làm ngài trước, đều không phải là đạo trời đất cha mẹ; trong cách đối xử với người, tự xử với mình, sao lại như thế? Tất phải như Trương Tử(2) lấy lòng trách người mà trách mình, thế mới gọi là hết đạo. Trước ngài nói: Thành Đông-quan chật hẹp, cho quân nhân ở thành về trước và quân ở Thanh-hóa các nơi lục tục kéo về sau”. Nay ngài lại muốn Thái đô đốc qua sông tương hội mà trách tôi là “bất tín”, há chẳng làm lầm ư? Mình làm không phải mà đổ lỗi cho người, bụng dạ người quân tử không ưa làm thế. Cuối thư ngài lại lấy việc họ Hồ bị thân táng quốc vong để ví. Họ Hồ bất đạo thì cố nhiên quân điếu phạt không thẻ trì hoãn. Song không làm cho nước đã diệt được phục hưng, dòng đã tuyệt có thừa kế, mà lại muốn cùng binh độc vũ, khiến những dân vô tội. luôn năm thiệt mạng ở trước gươm đao, những dân kính phục, luôn năm trát gan ở nơi đồng cỏ, có lẽ nào bụng dạ người nhân nhân quân tử lại như thế ư? Người ta bảo: “Lấy Yên đánh Yên, lấy Tần đánh Tần”(3) là thế đấy. Song ngày trước đã qua; từ nay về sau, xin ngài hé mở lòng thực, quyết định chí về, cho ngay quân nhân trong thành về trước, Thái công liên theo cùng về. Ngài nếu chưa đi, Thái công sao dám cất chân đi trước? Còn như phần tôi dọn mở lối về, cùng là sửa chữa cầu đường, dự bị lương cỏ, thì việc đó có khó gì đâu. Tôi nào có ý nguyện gì khác đâu? Thư nói không hết.

(1) Cuối năm 1426, Vương Thông đã thỏa thuận cho quân Minh ở cách thành bị vây về Đông quan rồi cùng rút về nước. Sau đó hắn lại lấy cờ “thành Đông-quan chật hẹp” nên quân Minh ở đây sẽ rút trước rồi quân ở các thành rút sau. Nay hắn lại đòi đưa Thái Phúc là tướng trấn thủ thành Nghệ-an đã đầu hàng nghĩa quân, sang sông gặp hắn với những âm mưu đen tối. Đây là thư trả lời nhằm bác bỏ yêu cầu của Vương Thông.

(2) Trương tử tức là Trương Tái, hiệu là Hoành-cừ, là một bậc đại nho đời Tống.
(3) Hai câu này chữ Hán là “Dĩ Yên phạt Yên, dĩ Tần công Tần” (lấy Yên đánh Yên, lấy Tần đánh Tần), ý nói là Yên và Tần là những nước bạo ngược vô đạo, nay đánh những nước ấy mà lại làm bạo ngược vô đạo thì có khác gì lấy yên đánh Yên, lấy Tần đánh Tần không?
 
29. LẠI THƯ CHO THÁI GIÁM SƠN THỌ[(1)
Kính thư gửi Thái giám Sơn lão đại nhân. Trộm nghĩ cái ơn ngày trước ngài đối với tôi hơn núi biển, mà tôi báo đáp không được mảy may, cảm đội ơn ấy, sâu lắm. Trước đây kinh viết thư cho ngài, tôi đã tự nói rõ ý. Tôi biết rằng ngày cùng quan tổng binh vốn muốn giảng hòa, để hai nước thoát khỏi cái khổ binh đao. Khốn nỗi vì lời bọn tiểu nhâu họ Phương họ Mã(2), vì thế mà bỗng hỏng việc nước. Cho nên bọn đầu mục trong quân của tôi có kẻ quy oán cho tôi, không nghe tôi răn bảo nữa. Cái việc ngày trước ấy tôi vốn không biết. Tôi nào dám vội quên lời trước mà định hại ngài đâu? Vả lại những điều phải trái ingay cong thực không thể trốn được sự xét đoán sáng suốt của lòng người. Ngạn ngữ có câu: “Như người uống nước, nóng lạnh biết ngay”. Ngày nay hòa nghị thành hay không thành, tín nghĩa mất hay không mất, không phải là lỗi tôi vậy. Ba trăm cỗ ngựa và một nghìn người quân tôi bắt được ngày trước, đều không bị thương tổn một mảy nào. Còn như những người bị giết, là do lâm thời đối địch, xuất ư bất đắc dĩ mà thôi. Nếu ngài lại theo ước cũ, như lời quan Tổng binh đã nói là “Không đợi mệnh mà về ngay”, thì những binh mã bắt được ngày trước, cùng quân nhân các vệ sợ khác, hiện đều còn ở đây, chỉ đợi lệnh ngài là tôi thi hành. Chưa rõ ngài định xử trí thế nào? Nếu không như thế, mà cứ còn mê hoặc ở mưu kế của bọn họ Phương họ Mã, thì tuy ngài có cái ân như cha mẹ, tất không thể yên nuôi con được, đến nỗi tôi không được phụng sự ngài để hết đạo làm con. Xin ngài tha thứ đừng trách là may. Thư nói không hết.

(1) Vương Thông và bộ chỉ huy quân Minh ở Đông-quan đều âm mưu giảng hòa để kéo dài thời gian hòa hoãn, bảo toàn lực lượng chờ quân cứu viện. Tuy nhiên thái độ và mức độ ngoan cố của từng người trong bọn chúng có khác nhau. Phương Chính, Mã Kỳ là những viên tướng tàn bạo, hung hăng, hiếu chiến, Sơn Thọ là một hoạn quan có tuổi, đã có quan hệ thư thừ với Lê Lợi - Nguyễn Trãi từ trước và ra khôn ngoan, dè dặt hơn. Nguyễn Trãi khai thác những khía cạnh đó để phân hóa kẻ thù và đẩy mạnh công tác địch vận.

(2) Họ Phương là chỉ Phương Chính, họ Mã là chỉ Mã Kỳ.

30. THƯ DỤ THỔ QUAN THÀNH ĐIÊU-DIÊU(1)
Quạ đi lại về quê cũ, cáo chết quay đầu về núi”(2). Cầm thú còn thế, huống nữa là người? Các ngươi vốn đều là người dân Tây Việt(3), dòng dõi văn minh. Trước nhân họ Hồ thất đức, giặc Ngô lăng loàn, có người thì thân bị hãm ở tặc đình(4), có người thì danh bị buộc ở ngụy chức, đó là thế không đừng được, nào phải do ở bản tâm đâu. Đấng thượng đế nghĩ thương dân ta, đã mượn tay ta. Đại thiên hành hóa Thái sư vệ quốc công (Sử ký chép: năm Đinh vị (1427) chư tướng suy tôn vua làm “Đại thiên hành hóa” (thay trời làm việc). Tự đó những văn thư tờ dụ phần nhiều dùng những chữ ấy để xưng), mà cứu dân đánh kẻ có tội để khôi phục cơ đồ. Quân đi đến đâu, nghĩa thanh vang dậy, dân chúng bốn phương cõng địu nhau mà kéo đến theo ta. Bọn các người nếu biết rửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch theo thuận, hoặc ở làm nội ứng, hoặc ra để đầu hàng, thì không những rửa mối hổ thẹn ngày trước, mà cũng được phần soi xét về sau. Ta không nói lời rồi lại ăn lời. Nếu các người lại còn tiếc tham ngụy chức, chống cự vương sư thì khi hãm thành, tội ác các ngươi tất nặng hơn giặc Ngô đấy.

(1) Thành Điêu-diêu (Toàn thư, q. 10, 25b), bản địch viết là Điêu-hào ở bờ bắc sông Nhị, là một đồn lũy quan trong bảo vệ mặt bắc thành Đông-quan. Chúng tôi đoán thành Điêu-diêu cũng là thành Tiền vệ của Đông-quan. Di tích của thành hiện nay đang còn ở xã Gia-thượng, Gia-lâm, Hà-nội.

Tháng 12 năm Bính ngọ, Lê Lợi phái tướng Bùi Quốc Hưng chỉ huy vây đánh hành Điêu-diêu. Nay Nguyễn Trãi lại viết thư dụ hàng số thổ quan trong thành. Quân địch đóng giữ ở đây, ngoài quân Minh còn có một số thổ quan, thổ quân người Việt. Tháng 1 năm Đinh mùi (1427) quân địch ở thành Điêu-diêu do chỉ huy Trương Lâu và tri phủ Trần Vân dẫn đầu, ra hàng.

(2) Hai câu này bản chữ Hán chép là: “Ô phản qui cố hương, hồ tử tất thủ khâu” (烏返歸故, 狐死必首丘 Quạ đi lại về nơi cũ, cáo chét tất quay đầu về núi). Ở Thuyết lâm của Hoài nam tử nói: “Điểu phi phản hương, hồ tử thủ khâu” (鳥飛反, 狐死首丘 Chim đi bay về nơi cũ, cáo chết quay đầu về núi).

(3) Tây Việt trong thư tịch cổ của Trung-quốc vốn là một tộc người Việt trong Bách Việt, từ Tần Hán về trước cư trú ở miền sông Tương, sông Ly về phía Nam. Nhưng ở đây, Tây Việt là chỉ nước ta, chỉ người Việt. Cương mục (q. 14, 3b) có trích lược bức thư này, nhưng lại chép là “Giao Việt”.

(4) Tặc đình: triều đình giặc.

31. THƯ DỤ THÀNH BẮC-GIANG(1)
Thư bảo cho tướng hiệu qua viên cùng quân nhân trong thành Bắc-giang. Ta nghe nói: Người có Bắc Nam, đạo không kia khác. Nhân nhân quân tử, không đâu là không có. Nước An-nam ta tuy xa ở ngoài Ngũ-lĩnh(2) mà tiếng là nước thi thư, những bực trí mưu tài thức đời nào cũng có. Vi thế phàm những việc ta làm đều là đúng theo lễ nghĩa, hợp trời thuận người. Trước đây quan tổng binh Thành-sơn hầu(3), sau khi thua trận ở Ninh-kiểu, sai người đưa thư đến ta ước hẹn hòa giải. Ta vì trên được hết lòng kính thuận với Triều đình, dưới được thoát khổ binh qua cho hai nước, nên nói gì ta cũng nhất nhất nghe theo. Sau lại bảo ta sai người dâng biểu cùa phong, mà nói rằng “sau khi dâng biểu lập tức rút quân”. Đến lúc biểu đã đi mà quân chưa thấy rút lại còn dựng thêm rào lũy, sắm sửa đồ binh, tự cho là đắc sách lắm. Bội ước thất tín đến thế là cùng! Hiện nay vệ quân các xứ Thanh-hóa, Diễn-châu đến đã nhất tề đến đây rồi, phàm vợ con tài sản của quân nhân, mảy may không bị xâm phạm. Nay cái kế tốt của ccá ngươi không gì bằng ra ở ngoài thành, cùng Thái đốc quân(4) quyết định việc về, để cứu vớt mấy nghìn tính mệnh ở trong thành. Chúng ta đã xét những việc đắc thất của cổ nhân, như Bạch Khởi nước Tần(5), Hạng Võ nước Sở(6), giết kẻ đầu hàng, trái lời đã ước, chúng ta không không làm như thế đâu. Các người hãy cứ thư lòng, đừng nên ngờ vực mà thành hỏng việc. Các ngươi nếu cho là thành cao hào sâu, lương thực lại nhiều, thì thử xem như ở các xứ Thanh-hóa, Nghệ, Diễn, thành không phải là không cao, hào không phải là không sâu, lương thực không phải là không nhiều, quân không phải là không mạnh; lại Thái đô đốc thì chức cũng to, binh cũng giỏi, trí cũng sáng, mà còn theo thời thông biến để bảo toàn tính mệnh cho mấy vạn con người. Thế mà các ngươi lại còn muốn cố chấp lời bàn suông, để mang tai vạ thực, há chẳng lầm lắm ư? Vả lại ta xem ở nước các ngươi, hiện nay bên trong có họa tiêu tường, bên ngoài có giặc Bắc biên(7); mà đại thần lấn vị, người dưới chuyên quyền; hạn hán hoàng trùng, luôn năm tai họa; bốn phương đạo tặc, nổi dậy như ong.Cái cơ tán loạn, há không biết trước rồi sao? Người trí giả thấy việc từ lúc việc chưa phát, sao các người lại thấy sự cơ muộn thế, mà muốn tự khổ như thế? Các ngươi nếu biết kéo quân ra thành, cùng ta hòa hảo thân tình, thì ta coi các ngươi nghĩa như anh em ruột thịt, nào chỉ những bảo toàn tính mệnh vợ con mà thôi đâu? Nếu không thế, tùy ý các người. Trong khoảng sớm tối, sẽ thấy khác nhau. Đến lúc bấy giờ, hối cũng không kịp. Các người hãy nên nghĩ đi.

(1) Phủ Bắc-giang xem chủ thích (3) thư 18. Thành Bắc-giang đời thuộc Minh là phủ trị của phủ Bắc-giang, còn gọi là thành Thị-cầu, nay thuộc thị xã Bắc-ninh, tỉnh Hà-bắc. Thành này giữ một vị trí quan trọng trên con đường từ Quảng-tây qua Pha-lũy (Mục-nam quan) đến Đông-quan. Bằng bao vây và dụ hàng, bộ chỉ huy nghĩa quân chủ trương phải tiêu diệt thành này trước khi viện binh của nhà Minh kéo sang.

Tháng 12 năm Bính ngọ, Bùi Quốc Hưng được lệnh đánh thành Bắc-giang. Sau đó, Nguyễn Chích lúc bấy giờ giữ chức tổng tri Hồng-châu và Tân-hưng, đem thêm quân đến tăng cường lực lượng vây hãm. Nguyễn Trãi viết thư này dụ hàng. Tháng 2 năm Đinh mùi (26-2 đến 27-3-1927) tướng giữ thành Bắc-giang (tức thành Thị-cầu) là Đường Bảo Trinh ra hàng.

(2) Ngũ-Lĩnh: năm đèo ở phía nam Trung-quốc: Đại-dũ, Thủy-an, Lâm-hạ, Quế-dương, Yết-dương.

(3) Vương Thông.

(4) Đốc quân là chữ xưng hô chức đô đốc. Thái đốc quân tức là đô đốc Thái Phúc.

(5) Thời Chiến quốc, Bạch Khởi là tướng tướng Tần, đem quân đi đánh Triệu, đã chôn 40 vạn quân Triệu ra hàng.

(6) Hạng Vũ đánh vỡ quân nhà Tần, đem quân chư hầu vào cửa quan; sau lại giết Tần vương Tử Anh là người đã hàng.

(7) Giặc bắc biên là chỉ sự xâm nhập của người Mông-cổ ở biên giới phương Bắc Trung-quốc. Riêng trong thời Minh Thành tổ, nhà Minh đã năm lần xuất chinh đánh nhau với Mông-cổ, mỗi lần xuất chinh phải điều động đến hàng chục vạn binh và hàng chục vạn dân phu.
 
32. THƯ DỤ THÀNH TAM GIANG(1)
Thư bảo cho tướng hiệu quan viên cuàng quân nhân trong thành Tam-giang. Cái điều đáng quý ở người quân tử là biết thời thông biết, lượng sức xử mình. Bây giờ giá có người đem quả trứng chim đỡ núi Thái, lấy càng bọ ngựa ngăn cản bánh xe, mà lại tự cho là sức có thừa, thì thật là ngu quá vậy. Lũ người có vài trăm quân, giữ thành trơ trọi mà lại muốn kháng cự với ta, thì có khác gì thế không? Thành trì của các người không cao sâu bằng ở Nghệ-an, lương thực của các người không súc tích bằng ở Diễn-châu, mà quân vũ dũng cảm tử của các ngươi lại không đông bằng quân nhân ở Diễn, Nghệ, quan tước của các ngươi lại không to bằng Thái đô đốc. Thế mà vệ quân ở các xã Diễn, Nghệ, Thuận-hóa, Tân-bình, Thanh-hóa, Tiền vệ, Thị-cầu, Xương-giang, Trấn-giang (tức Trấn-di) đều đã mở thành ra hàng(2). Nay dưới cây Bồ đề(3), Thái đô đốc đã định nhật kỳ kéo quân về Kinh. Phàm quân nhân cùng vợ con tài sản không bị xâm phạm mảy may. Thế mà các ngươi chỉ cứ theo mê giữ lầm, không biết lo xa, sao mà thấy biết sự cơ muộn thế! Tất cả những tướng sĩ của ta, không ai là không hăm hở muốn vác khí giới lên phá thành ngay. Nhưng tư còn nghĩ thương những kẻ vô tội ở trong thành đã bị các ngươi lừa dối, một khi tiếng trống nổi lên, thì ngọc đá(4) chẳng phân biệt gì, đều tan nát cả. Vậy viết mấy chữ gửi các ngươi hay.

(1) Thành Tam-giang ở tỉnh Vĩnh-phú ngày nay, nắm trên con đường tiếp viện từ Vân-nam đến Đông-quan, nên bộ chỉ huy nghĩa quân chủ trương phải tiêu diệt trước khi viện binh nhà Minh kéo sang. Ngày 12 năm Bính ngọ, Lê Lợi phái tướng Trịnh Khả, Lê Khuyển đánh thành Tam-giang. Tháng 2 năm Đinh-mùi (26-2 đến 27-3-1427), nhân có viên chỉ huy họ Tăng (chưa rõ tên) của địch ra hàng, Nguyễn Trãi đi với viên chỉ huy này đến tận thành dụ hàng. Đây là thư dụ hàng của Nguyễn Trãi. Ngày 6 tháng 3 (ngày 2-4-1427, quân địch do chỉ huy Lưu Thanh dẫn đầu ra hàng.

(2) Thực ra lúc bấy giờ - khoảng tháng 2 đầu tháng 3 năm Đinh mùi (1427) - quân địch trong thành Xương-giang không chịu đầu hàng và quân ta cũng chưa hạ được thành. Nguyễn Trãi nói như vậy để uy hiếp thêm tinh thần quân địch.
(3)Dưới cây bồ đề ở đây là chỉ dinh Bồ-đề ở Gia-lâm, nơi đóng quân của Lê Lợi. Theo chú thích của Cương mục (căn cứ vào Bắc-ninh tỉnh chí) thì dinh Bồ-đề ở thôn Phú-hựu, huyện Gia-lâm, phủ Thuận-an, tỉnh Bắc-ninh, trong thôn có hai cây bồ đề nên người ta gọi là dinh Bồ-đề.

(3) Thiên “Dận chinh” Kinh Thư có câu “Hỏa viêm Côn-cương, ngọc thạch câu phần” (火炎昆玉石俱焚 lửa bốc cháy núi Côn-cương, ngọc đá đều bị đốt cháy hết cả). Ngọc đá không phân là ý nói bất cứ ai cũng đều bị hại cả.
 
33. THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
(Vua sai người đi lại chỗ Thông, Thông không nhận, nên có thư này để bảo).
Thư gửi đến trước quan tổng binh Thành-sơn hầu. Trước tôi có thư, chưa được chỉ bảo; sai người sang hầu, lại không cho về. Thế thì ngày trước ngài nói “lời nói việc làm không trái nhau”, lời ấy ở đâu rồi thế? Tôi nghĩ cái đạo nước nhỏ phụng sự nước lớn, nên phải kính sợ. Vả lại theo lời ngài nói trước, nghĩa không nỡ dứt, nên mới luôn luôn gởi thư, không ngại tần phiền. Song rút lại vẫn không được như nguyện. Không biết có phải là tình thế khiến như thế chăng? Tôi trộm tính kế cho ngài, chẳng gì bằng rút quân khải hoàn, để cho hai nước khoát cái khổ can qua không ngớt, để cho nước nhà khỏi cái họa độc vũ cùng binh để nên cái nghĩa phục lại nước diệt, nối lài dòng tuyệt, để tỏ lòng nhân xem dân như một, không bụng riêng tây, trên không phụ lòng triều đình ủy nhiệm, dưới không sai nghĩa tướng thần xuất khổn, khiến cho tên nêu sử sách, thế lại không tốt đẹp sao! Nếu lại theo cái tệ Hán Đường tham việc lớn thích công to, thì chi bằng dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ đánh kẻ tội! Nay lại bỏ điều ấy mà không tính, chỉ xăm xăm đào hào đắp lũy, hàng ngày cứ lấm lét chỗ cửa thành, cướp trộm củi cỏ(2), sao mà tự khổ đến thế Ngài nếu cho là thành hào hiểm vững có thể cậy được, thì tôi e nước xa không cứu được lửa gần. Nếu bảo những quân dũng cảm trong thành còn nhiều, muốn quyết một trận sống mái, thì ngày trước tôi còn ở Khả-lam, Trà-lân, bọn các ông Phương Chính hàng vạn quân đều lầ mạnh giỏi, mà tôi chỉ có vài trăm quân một dạ cha on còn có thể đến đâu tan đấy, thế tựa chẻ tre; phương chi nay lấy các lộ diễn, Nghệ, Thanh-hóa, Tân, Thuận(3), Đông-đô, chọn quân tinh nhuệ, không dưới vài mươi vạn, thì cái thế được thua có thể ngồi mà tính được. Song nước thịnh hay suy, quan hệ ở trời, binh mạnh hay yếu, không cứ ở nhiều, thế mà ngại lại cứ lấy việc họ Hồ ngày trước mà ví. Tôi cho việc ngày nay với việc ngày trước khác nhau. Họ Hồ thì dối trời hại dân, mà tôi thì kính trời thuận dân, lẽ thuận nghịch không giống nhau là một. Quân của họ Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng, mà quân của tôi bất quá vài mươi vạn, nhưng ai cũng một lòng, cái đó không giống nhau là hai. Nay ngài nếu không vì người (ngu) mà bỏ lời (phải)(4) quyết định chí về, sai người thân tín cùng Sơn đại nhân qua sông hội nghị, thì tôi lập tức rút quân về Thạch-thất(5), Thanh-đàm(6), Khoái-châu(7) để hầu lối ra. Nếu không thế thì chẳng làm thế nào được.

(1) Lê Lợi - Nguyễn Trãi chủ trương tiếp tục vây hãm thành Đông-quan và kiên trì dụ hàng Vương Thông. Một lần sứ giả mang thư của Lê Lợi vào thành Đông-quan bị Vương Thông bắt giữ lại. Nhưng Nguyễn Trái vẫn gửi thư để duy trì quan hệ thương thuyết và phân tích mọi lẽ để thuyết phục kẻ thù.

(2) Vương Thông thường cho quân lính lén lút ra cửa thành để cướp củi và cỏ.
(3) Tân, Thuận tức là Tân-bình, Thuận-hóa.

(4) Trong Luận ngữ, Khổng tử có nói: “Quân tử bất dĩ nhân phế ngôn” 君子不以人廢言 ý nói rằng người không có đức mà có điều hay thì người quân tử không vì người không ra gì mà bỏ lời nói hay của họ.

(5) Thạch-thất: nay là huyện Thạch-thất tỉnh Hà-tây.

(6) Thanh-đàm hay Long đàm; nay là huyện Thanh-trì, Hà-nội.

(7) Khoái châu: nay gồm các huyện Khoái-châu, Phù-cừ, Tiên-lữ, Kim-đồng, Ân-thi (tỉnh Hải-hưng).
 
34. LẠI THƯ DỤ VƯƠNG THÔNG(1)
Tôi từng xem Kinh Dịch 384 hào(2), mà cốt yếu là ở chữ “thời”, cho nên người quân tử theo thời thông biến, nghĩa chữ “thời” to tát sao! Ngày trước, khi mới sang đánh Giao-chỉ, tướng thần vâng mệnh đi đánh kẻ có tội, bấy giờ lại một thời vậy. Ngay nay vận tời tuần hoàn, đi rồi lại lại, khi ngài phụng mệnh sang đây được tiện nghi làm việc, nếu ngài quả biết theo chiếu thư của Thái tôn mà cho lập con cháu họ Trần để khôi phục nước tôi, thì bây giờ lại là một thời vậy Thời! Thời! thực không nên lỡ. Kinh Thư có câu: “Ai trước thời giết không tha, ai sau thời biết không tha”(3). Vì thế mà người quân tử lấy tùy thời xử trung làm quý. Song từ xưa đến nay, kẻ vu cho tục sĩ không hiểu thời vụ; hiểu thời vụ họa chăng chỉ có bực tuấn kiệt mà thôi. Như ngài thì có thể bảo là bực tuấn kiệt hiểu thời vụ đấy. Trước phụng tiếp thư ngài bảo tôi nên hối hận điều lỗi trước, lại thu xếp việc hòa xưa. Thực như lời người ta bảo: “Người Quân tử không giữ oán cũ, ví như mưa to gió dữ, chốt lại tạnh quang”. Thực là đáng mừng. Song một đoạn trong thư có nói xem quân sĩ ở đây cho về trước thì xét lý có phần trở ngại. Sao thế? Ngài cầm hoàng việt, thống đốc vương sư, chư tướng tuy có tài hơn đời, có sức tột bực, ai là chẳng phải bôn tẩu theo mệnh lệnh ngài? Ngài chưa đi mà muốn các quân Diễn, Nghệ về trước thì không thuận lẽ. Đó là điều trở ngại thứ nhất. Vả nay đã lấy các quân Diễn, Nghệ ra, theo lời nghị trước thì cho quân nhân trong thành về trước, nhưng vị bọn tiểu nhân làm lỡ việc mà việc tốt trở thành khấp khểnh, các quân Diễn, Nghệ vốn có lòng oán giận, cho là ngài đã bán họ, nay ngài chưa đi thì Thái đô đốc tất không dám đi trước một bước. Đó là điều trở ngại thứ hai. Hiện nay khí trời ôn hòa, chính là lúc đem quân về rất tốt. Nếu ngài bỏ lỡ thời ấy không đi, mà cứ chờ đợi, đến lúc nước xuân mới sinh, khí trời nóng bức dần, mà bảo là ung dung khải hoàng thì tôi e những quân sĩ đi lâu nhớ nhà, giữa đường ta oán, đến bấy giờ dẫu muốn ung dung vị tất đã được ung dung. Trước có bảo là tùy thời xét biến, chính nên liệu sớm ngay đi. Ngài quả không cho lời tôi là vu khoát, mà mở rộng lòng thành, thì xin cho người thân tín cùng Sơn đại quân qua sông cùng hội, giết ngựa uống máu ăn thề, nguyện có quỷ thần, định rõ nhật kỳ, sẽ đưa trả Nguyễn nội quan và Hà tri châu về Đông-quan(4). Tôi cũng sai ngay người dâng biểu nộp cống và rút quân về các xứ Thạch-thất, Khoái châu, để ngài được ung dung lên đường. Các quân lục tục kéo về, mà Sơn đại nhân ở sau thu vén. Như thế thì đôi bên hiềm nghi tiêu tán, mà lòng ngài như trời đất ca mẹ, mới trọn vẹn thủy chung. Tôi dẫu kết cỏ ngậm vành(5), sao đủ báo đáp?

(1) Vương Thông không dám cự tuyệt thương lượng nhưng viện mọi cớ để thoái thác không chịu rút quân. Hắn vẫn ngoan cố đóng giữ thành Đông-quan và đòi để cho quân Minh ở các thành Diễn-châu, Nghệ-an đã ra hàng được rút về nước. Cũng như thư 28, thư này Nguyễn Trãi kiên quyết bác bỏ yêu cầu xảo trá đó.
(2) Hòa
là nét vạch thành 8 quẻ (bát quái), nó là phù hiệu hiển thị biến động ở trong quẻ. Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, cộng 384 hào.

(3) Thiên “Dận chinh” Kinh thư có dẫn câu: “Tiên thời giả sát vô xá, hậu thời giả sát vô xá” 先時者殺無赦後時者殺無赦 (theo Tuân Tử thì 先時者殺無赦不逮時者殺無赦 Tiên thời giả sát vô sá, bất cập thời giả sát vô sá) ý nói phải làm đúng thời thì mới không là trái phép sai thời mà khỏi phải chịu tội chết. Lời của Dận Hầu tuyên cáo với quân chúng khi phụng mệnh đi đánh họ Hy, họ Hòa về tội bỏ trễ chức vụ báo cáo về thiên tượng (như tuệ tinh, nhật nguyệt thực, v.v…) không đúng thời.

(4) Nguyễn nội quan (chưa rõ tên) và Hà tri châu (tri châu Hà Trung) là viên quan nhà Minh bị nghĩa quân bắt vào cuối năm 1426.

(5) Kết cỏ ngậm vành do chữ 結草銜環 (kết thảo hàm hoàn). Xưa Ngụy Thù nước Tấn có người thiếp đẹp không có con. Thù ốm, bảo con là Khỏa rằng: “Phải gả chồng cho người ấy”. Sau ốm nặng, Thù lại bảo Khỏa rằng: “phải chôn người ấy theo ta”. Đến khi Ngụy Thù chết, thì Ngụy Khỏa đem gả chồng cho người thiếp ấy. Sau Khỏa làm tướng nước Tần, đánh nhau với quân Tần ở Phụ-thị, Khỏa thấy có ông già ngồi buộc cỏ lại. Đỗ Hồi là tay vũ lực giỏi của Tần vướng cỏ ngã bị Khảo bắt được. Đêm ấy Khỏa nắm mơ thấy một ông già đến nói rằng: “Tôi là cha người đàn bà mà ông đem gả chồng. Ông không chôn sống con tôi nên tôi làm thế để báo ơn”. (Tả truyện). Xưa Dương Bảo ở đời Hán khi lên 9 tuổi, bắt được con chím sẻ vàng bị chim cắt bắt đánh rơi bị thương, đem về nuôi cho khỏi rồi thả ra. Đêm có người đồng tử mặc áo vàng ngậm bốn vành ngọc trắng đến nói cám ơn (truyện Dương Chấu ở Hậu Hán thư). Vì thế người đời sau dùng hai điển đó để tả sự báo ơn. Riêng điển tích thứ hai còn được gọi là 黃雀銜環 “hoàng tước hàm hoàn”.
 
35. LẠI THƯ DỤ VƯƠNG THÔNG(1)
Kính thư gửi quan Tổng binh cùng liệt vị đại nhân. Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy; sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải bọn thất phu hèn kém ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được? Trước đây lòng mưu giả trá, mặt thác giảng hòa, rồi cứ đào hào đắp lũy, ngồi đợi viện binh, tâm tích không rõ, trong ngoài khác nhau, sao đủ khiến ta chắc tin mà không ngờ được? Cổ nhân có nói: “Tha nhân hữu tâm, dư thổn đạc chi” (Bụng dạ người khác, ta lường đoán biết), nghĩa là thế đó. Xưa kia Tần thôn tính sáu nước, chuyên chế bốn biển, đức chính không sửa, thân mất nước tan. Ngay Ngô(2) mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy một năm tất nối nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy. Hiện nay phương Bắc có kẻ địch Thiên-nguyên(3), trong nước có mối lo các xứ Tầm-châu(4), một khu Giang-tả(5) không tự giữ xong, huống còn mưu toan cướp nước khác ư! Các ông không hiểu sự thế, bị người đánh thua, lại còn chực dựa uy Trương Phụ(6), thế là đại trượng phu chăng? Hay cũng chỉ là đàn bà thôi? Sự thế ngày hay, dẫu cho thượng vị(7) có đem quân đến nữa, cũng chỉ chóng chết mà thôi, huống là Trương Phụ chỉ tự đến nộp mạng thì sang đáng nói! Xưa Hán Chiêu Liệt(8) chỉ là di phái họ Lưu, mà Khổng Minh làm cho đại nghiệp phục hưng dược, huống hồ con cháu hoàng Trần, mệnh trời đã cho, lòng người đã theo, thì Ngô sao có thể cướp được! Và kẻ hào kiệt ngày xưa, chưa gặp thời thì ẩn, đã thấy cơ thì dậy, cho nên Y Doãn(9) là kẻ cày ruộng ở đồng Sằn, Thái công(10) là kẻ câu cá ở sông Vỵ, một người thì làm vương tá, một người thì làm đế sư, đấy là người hào quý chăng? Là người bần tiện chặng? Còn như Mộ Dung nước Yên(11), Thạch Lặc(12) nước Triệu đó là người Trung-quốc chăng? Là người Man Mạch(13) chăng? Ngẫm kỹ lời các ông nói, thật là lời nói của tiểu nhân Man Lão, không phải là lời nói của người Trung-quốc vậy. Nay sức hết kế cùng, quân sĩ nhọc mệt, trong thiếu lương thực, ngoài không viện binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành chơ vơ, há chẳng phải là như thịt trên thớt, cá trong nồi sao? Thế mà lại còn lừa dối dân ta, dụ điều phi nghĩa. Kìa những kẻ trung thần nghĩa sĩ, dầu thời cùng vận ách, nếm mật nằm gai, cũng chẳng chịu mưu đồ kia khác, lẽ nào ngày nay lại chịu tin nghe lời bất nghĩa của bọn các ông? Chỉ e người Nam trong thành nhớ mến chủ cũ, người Ngô ở đây khốn khổ không kham, thì những người chống các ông sẽ kế nhau ra hàng, như Trương Phi, Lữ Bố(14), các ông lại bị chính bộ hạ giết hại, đó là lẽ tất nhiên. Nay ở các thành, từ Đô ty trở xuống đều căm giận bọn các ông lừa dối, khuyên ta làm cỏ cả thành. Hoặc có kẻ trèo lũy trốn ra, tố cáo cả việc sắp đặt chiến cụ, sửa đóng xe thang. Những người bị khốn sẽ giết lẫn nhau, hà tất phải quân sĩ của ta nữa. Nay tính hộ các ông thì có sáu điều phải thua:

─ Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết, quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất.

─ Xưa Đường Thái bắt Kiến-đức mà Thế Sung ra hàng(15). Nay những nơi quan ải hiểm yếu, đều có quân và voi đồn giữ, nếu viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.

─ (Ở nước các ông) quân mạnh ngựa tốt nay đã đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên(16), không rỗi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.
─ Luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp, người sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.

─ Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau(17), gia đình sinh biến. Đó là phải thua thứ năm.

─ Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt, tự chuốc diệt vong. Đó là điều phải thua thứ sau.

Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, ta lấy làm tiếc cho các ông lắm! Cổ ngữ có câu: “Nước xa không thể cứu lửa gần”. Giá viện binh có đến, cũng không có ích gì cho sự bại vong? Trước Phương Chính, Mã Kỳ chuyên làm hà ngược, sinh linh lầm than, thiên hạ ta oán, đào phần mộ ở ấp ta, bắt vợ con của dân ta, người sống bị hại, người chết ngậm oan. Nếu các ông xét kỹ sự cơ, nhận rõ thời vụ, nên chém lấy đầu Phương Chính, Mã Kỳ đưa nộp ở quân môn, thì sẽ tránh khỏi giết hại cho người trong thành, hàn gắn vết thương cho người trong nước, hào hảo lại thông, can qua nghỉ mãi. Như muốn kéo quân về nước, thì cầu đường sửa xong, thuyền ghe sắm đủ, thủy lục hai đường, tùy theo ý muốn, đưa quân về cõi, yên ổn muôn phần. Ta chỉ giữ phận bề tôi, không thiếu chức cống. Nếu không nghe thế, thì nên chỉnh quân bày trận, giao chiến ở chốn bình nguyên, quyết một trận được thua, để xem khéo vụng, chứ không nên ở chúi trong xó hang cùng và bắt chước thái độ mụ già như thế!

(1) Thành Đông-quan bị bao vây từ tháng 10 năm Bính ngọ (1426). Cuộc vây hãm và dụ hàng của quân ta làm cho quân Minh trong thành càng ngày càng khốn đốn: lương thực cạn dần, quân lính mệt mỏi, tinh thần suy sụp, Vương Thông lo lắng, tung tin viện binh sắp sang và khuếch đại thế lực nhà Minh để động viên quân lính. Nguyễn Trãi viết thư này vào khoảng tháng 2 năm Đinh mùi (1427) nhằm phân tích tình hình khó khăn mọi mặt của nhà Minh, vạch rõ nguy cơ bại vong nếu quân địch vẫn ngoan cố giữ thành chờ viện binh.

(2) Khi Chu Nguyên-chương (vua Thái tổ nhà Minh sau này) đấy quân ở Từ-châu, tự xưng là “Ngô-vương”, nên sau thường dùng tên này để gọi nhà Minh.

(3) Thiên-nguyên: niên hiệu của hậu chúa Cô-tử-thiếp-mộc-nhi, dòng dõi nhà Nguyên, chiếm giữ miền Bắc, vẫn đang chống lại nhà Minh.

(4) Tầm-châu: thuộc tỉnh Quảng-tây. Năm Tuyên-tông thứ 1 (1426) các dân tộc thiểu số ở Tầm-châu nổi dậy chống lại nhà Minh. Tuyên-tông phải nhiều lần phái quân đi đàn áp.

(5) Giang-tả: miền cuối hạ du sông Trường-giang, nay là miền Giang-tô.

(6) Trương Phụ là viên tướng chỉ huy quân Minh sang đánh họ Hồ, cướp nước ta năm 1406-1407.

(7) Thượng vị: chỉ vua Minh.

(8) Chiêu Liệt là Lưu Bị. Bị vốn là tôn thất nhà Lưu Hán, Gia-Cát Lượng giúp Bị, đánh lại Tào, lấy Kinh-châu, định Ích-châu, rồi dựng nước ở Thục.

(9) Y Doãn trước đi cày ở đồng họ Hữu Sằn. Vua Thang ba lần cho đem đồ lễ vật đến đón mới ra ; ông giúp vua Thang đánh chúa Kiệt, làm vua thiên hạ. Vua Thang tôn ông làm chức A-hành.

(10) Thái công Vọng tức Lữ Thượng. Trước đi câu ở sông Vị, Văn vương đi săn, gặp ông, nói chuyện thích lắm. Văn Vương đem ông về, lập làm thầy. Rồi ông giúp Vũ vương đánh Ân, lấy được thiên hạ.

(11) Mộ-dung: Họ Mộ-dung là chủng tộc Tiên-ty ở thời Đông Tấn. Mộ-dung Ngỗi làm vua khai quốc nướcTiền Yên ; Mộ-dung Thùy làm vua khai quốc nước Hậu Yên ; Mộ-dung Đức làm vua khai quốc nước Nam Yên; đều là người Hộ, trước sau cát cứ Trung-quốc.

(12) Thạch Lặc: người thuộc chủng tộc Yết. Thạch Lặc đem quân xâm lược Trung nguyên, đánh lấy châu quận rất nhiều. Sau phản Tiền Triệu sưng vương rồi xưng đế, dựng nhà Hậu Triệu. Trong 16 nước thuộc ngũ Hồ, Thạch Lặc là cường thịnh nhất.

(13) Man Mạch: người không phải tộc Hán ở phương Nam gọi là “Man” ở phương bắc gọi là “Mạch”. Đó là tên gọi khinh miệt của phong kiến Trung-quốc đối với các dân tộc thiểu số.

(14) Lữ Bố dũng tướng của Hậu Hán, Trương Phi dũng tướng của Thục Hán, hai người đều bị bộ hạ giết.

(15) Đường Thái-tông vây đánh Thế Sung. Đậu Kiến Đức đem quân đến cứu Sung. Thái-tông đánh bắt được Kiến Đức, vì thế Sung phải hàng.

(16) Quân Nguyên tức là quân Mông-cổ.

(17) Sau khi Minh Thái tổ chết, cháu là Doãn Văn lên ngôi, thì Yên Vương Lệ (Con Thái-tổ) liền đem quân đánh đuổi Doãn Văn mà cướp ngôi tức Minh Thành-tổ. Thành tổ chết, truyền ngôi đến cháu là Tuyên-tông, thì Cao Hú, con Thành tổ, dấy quân làm phản. Tuyên tông thân hành đi đánh, bắt được Cao Hú. Sau Cao Hú và con cháu đều bị Tuyên tông giết.
 
36. THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
(Tư không Lê Lễ và thượng tướng Lê Xí(2) đánh nhau với quân Minh ở My-động bị thua. Vua vị sự thất bại ấy mà viết thư cho Vương Thông. My-động là Hoàng-mai động ngày nay).

Tôi nghe: Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy. Cho nên người dùng binh giỏi không lấy sự thắng nhỏ mà mừng, không lấy sự thua to mà sợ. Nay các ông lấy tàn tốt vài nghìn, giữ một thành trơ trọi, lương sắp hết mà viện không thấy đến, chúng lìa lòng mà quân ngày ít đi, cái thế mạnh yếu được thua, có thể ngồi mà tính được. Huống hồ nước An-nam binh tướng thì nhiều, tâm lực đều nhau, chiến khí càng tinh, sĩ khí càng mạnh, kẽ sĩ trí mưu, các tướng vũ dũng, chẳng khác cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau vậy. các ông có thắng một trận nhỏ cũng không thấy là mạnh, mà ta dẫu có thua một trận nhỏ cũng không thấy là yếu. Vừa rồi mấy người tỳ tướng của ta, tuổi trẻ tính ngông, không theo ước thúc, khinh chiến lỡ cơ, các ông lấy thế làm đắc chí. Nay đem những tướng hiện ở các nơi Tân-bình, Thuận-hóa, Diễn, Nghệ cùng các sở Tiền-vệ, Tam-giang, Xương-giang, Trấn-di(3) và Thái đô đốc cùng các quan Tam ty, chỉ huy, thiên bách hộ, ước hơn vài trăm người, quân nhân một vạn vài nghìn người, trai gái lớn nhỏ hơn ba vạn người bị các ông làm lầm lỡ, mà so với vài người tỳ tướng cuẩt, thì ai hơn ai kém, ai được ai thua? Thế mà ông không hề lấy thế làm lo, lại còn dương vây nói mẽ, có khác gì nhà đương cháy mà chim én còn nhơn nhơn vui vẻ cùng nhau, há chẳng đáng cười lắm sao! Vảy nay ở miền Lưỡng Quảng nghe tin quân ta thừa thắng ruổi dài, bọn đạo tặc đã nhân dịp mà trỗi dậy. Tích-lịch đại vương(4) đã giữ đất xưng đế, mà binh tượng của ta ngày đêm tiến đánh. Bằng-tường(5) Long-châu(6) ta đều lấy được. Nay ông vẫn còn ngày ngày mong đợi viện binh mà nói phao là viện binh sắp đến, thì có khác gì trong mộng nói chuyện mông không? Lại càng đáng cười lắm! Ngày trước Thái đô đốc và các chỉ huy thiên vạn hộ(7) cùng các quan phủ huyện châu có bảo tôi đem sự lý trong tờ chiếu của Thái tôn hoàng đế cho lập họ Trần về vào Kinh(8) mà tâu bày và tố cáo việc quan tổng binh không biết, trấn thủ Nam-phương(9) lại theo kế của người khác, tự gửi văn thư đi thu binh mã của các vệ giả làm giảng hòa rồi thì bội ước để đến nỗi bọn ấy nhao nhao kêu la thất sở. Song tôi cứ tờ tâu ngày trước bắt được thì thấy tổng binh đại nhân thực có lòng thành, chỉ vì bọn họ Phương họ Mã làm mê muội mới đến nỗi thế. Bởi vậy lời bàn ấy chưa quyết. Nếu ngài nay lại biết theo lời ước cũ, thì nên cho quân về ngay, cùng hòa giải với Thái đô đốc, vừa để thoát khổ can qua cho hai nước, vừa để giải mối oán bị bán rẻ của Thái công. Như thế thì trọn quân mà khỏi họa, há chẳng hay sao! Nhược bằng cứ chấp mê mà giữ đến chết không biết biến thông thì cũng như câu Đường Thái tôn bảo “tận trung vô ích” (hết trung không ích gì) vậy. Vả kẻ đại trượng phu làm việc nên phải lỗi lạc đàng hoàng. Ngài muốn đánh thủy, thì nên bày hết chiến thuyền ở cửa sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì nên xuất hết binh mã ra đồng ruộng để quyết sống mái trong một hai ngày, không nên chíu ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy củi cỏ, cho thế là đắc sách. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phải là việc làm của bực đại trượng phu!

(1) Trong khoảng tháng 2 tháng 3 năm Đinh mùi (1427), Vương Thông lợi dụng một vài sơ hở của quân ta, tổ chức ba cuộc phản kích.

Ngày 7 tháng 2 (ngày 4-3-1427) Phương Chính đánh ra trại quân của Lý Triện, Đỗ Bí ở Cảo-động (Nhật-tảo, Từ-liêm, Hà-nội; Toàn thư q.10, 28a chép là Quả-động). Quân ta đánh lui quân địch, nhưng trong chiến đấu tướng Lý Triện hy sinh và Đỗ Bí bị bắt.

Ngày 19 (ngày 16-3-1427), quân Minh lại đánh ra Bãi Sa-đôi (Sa-đôi hay cầu Đôi, Từ-liêm, Hà-nội), nhưng cũng bị đánh lui.

Ngày 8 tháng 3 (ngày 4-4-1427), Vương Thông tự chỉ huy một đội quân tinh nhuệ bất người đánh ra doanh trại quân ta ở Tây Phù-liệt (Thanh-trì, Hà-nội) Quân địch cũng bị đánh lui và bị truy kích đến My-động (Hoàng-mai, Thanh-trì, Hà-nội). Nhưng ở đây, hai tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí bị giặc bắt.

Vương Thông ra sức thổi phồng những thắng lợi nhỏ đó và tiếp tục phao tin viện binh sắp sang đến nơi để củng cố tinh thần quân lính. Nguyễn Trãi viết thư nào vào khoảng tháng 3 năm Đinh mùi (1427) sau trận quân Minh đánh ra Tây Phù-liệt, để vạch trần những luận điều giả dối của Vương Thông và sự thất bại không tránh khỏi của kẻ thù.

(2) Chính tên là Đinh Lễ và Nguyễn Xí; nhưng sau được Lê Lợi ban “quốc tính” cho đổi làm họ Lê (họ nhà vua) để tỏ ý hậu đãi công thần, nên sử cũ thường chép là Lê Lễ và Lê Xí. Sau khi bị địch bắt ở My-động, Đinh Lễ bị giặc giết chết, còn Nguyễn Xí thì dùng mưu trốn thoát được.

(3) Vệ Trấn-di đóng ở ải Trấn-di thuộc huyện Trấn-dĩ phủ Lạng-sợn, tức ải Chi-lăng thuộc huyện Chi-lăng, tỉnh Lạng-sơn.

(4) Từ đầu thế kỷ XV, ở Trung-quốc đã bùng nổ những cuộc khởi nghĩa nông dân lẻ tẻ, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Đường Trại-nhi ở Sơn-đông năm 1420. Tích-lịch đại vương có lẽ là một thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa ở vùng Lưỡng Quảng.

(5) Bằng-tường thuộc tỉnh Quảng-tây (Trung-quốc), gần biên giới nước ta.

(6) Long-châu thuộc tỉnh Quảng-tây (Trung-quốc), gần biên giới nước ta.

(7) Trong sách in là (binh), nhưng có lẽ in nhần là chữ (hộ).

(8) Tức là Yên-kinh (Bắc-kinh), thủ đô của nhà Minh.

(9) Trong sách in là Bắc phương thì không hợp, chúng tôi chữa lại la Nam phương.
 
37. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Tri phủ phủ Thanh-hóa Lê Mỗ(2) kính thư gửi quan tổng binh Thành-sơn hầu biết: Tôi nghe cái điều đáng quý ở người tuấn kiệt là biết thời thế, hiểu sự biến mà thôi. Xem ta ngày xưa ở Khả-lam, đất chẳng qua một thành, quân chẳng qua một lữ(3), mà thường bị bọn Mã Kỳ, Chu Kiệt bức; sau lại phải trốn ở núi Chí-linh đất Lão-qua để đời thời mà ra, cơm ăn chẳng nền hai bữa, áo mặc chẳng nề đông hè, quân lính chỉ độ vài nghìn, khí giới thì như không trơn, thân thích con em thầy bạn thì tán tác quê người, không được xum họp. Thế mà bọn Phương Chính, Mã Kỳ, Vương Thành, Phùng Quý lại luôn năm tiến đánh, binh giáp của ta sớm hôm bố trí, không phút nghỉ ngơi. Song gặp khốn mà thông, càng đánh càng thắng, đến đâu cũng là bẻ gãy đập tan, há chẳng phải là lòng trời đấy sao! Ngày nay vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại. Trước kia ăn không nề hai bữa, mà nay thì lương thực của các ngươi tích trữ, ăn được ba chục năm; trước kia quân bất quá vài trăm người, mà nay thì binh phụ tử(4) ở Thanh-hóa không dưới hai vạn, quân có tiếng tinh tráng dũng cảm ở Diễn-châu, Tân-bình, Thuận-hóa cũng không dưới vài vạn, cùng quân đồng tâm đồng lực ở các lộ Giao châu, không dưới mười vạn người; trước thì thầy bạn thân tích tán tác, mà nay thì những kẻ sĩ trí mưu tài thức, không khác cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau; trước thì khí giới không trơn mà nay thì thuyền chiến ngất mây, áo giáp rực sáng, tên đạn chất đống, thuốc súng đầy kho. So với giờ, mạnh hay yếu thì biết rõ được. Huống chi ở nước người, quốc chúa liền năm tử táng(5), cốt nhục tàn hại lẫn nhau, Bắc-khấu xâm lăng, đại thần lấn át; gia dĩ mùa màng mất luôn, thổ mộc(6) làm mãi, chính lệnh hà khắc, giặc cướp như ong. Từ niên hiệu Hồng-vũ(7) đến nay, cùng binh độc vũ trong nước tổn hao, nhân dân mệt nhọc. Trời làm táng vọng, chính ở lúc này. Ngươi còn không biết thời biến, lại nghe lời bọn Phương, Mã mà vẫn làm kế công thủ. Hắn nếu giỏi công thủ thì sao không đánh ta ngay thuở ở Khả-lam hãy còn nhỏ yếu, mà bây giờ lại dương vây khoác lác như thế ư? Sao không biết nghĩ lắm thế. Huống chi lại bưng bít tai mắt người ta, đặt điều lừa phỉnh nói phao là viện binh sắp đến, Trương Phụ lại sang. Ngươi sao không nghĩ, ngày nay dẫu có mười vạn viện binh, thì có dám vượt cửa quan không. Vì bằng dốc quân cả nước kéo sang, hoặc độ ba vốn mươi vạn, thì sao ngươi không liệu, nước ngươi ngày nay quả vô sự chăng? Hay ở trong vách tường hãy còn có việc chăng? Như loại Trương Phụ, bất quá nhất thời hú họa thành công thôi. Bấy giờ họ Hồ thoán đoạt, người cả nước xem tựa kẻ thù, dân chúng chống lại, thân thích phân ly, Trương Phụ chỉ may nhân chỗ hở ấy mà thành công thôi. Ngươi sao không nghĩ, ta binh tượng nhiều, tâm lực đều, dù có trăm bọn Trương Phụ thì làm gì ta! Huống chi nước ngươi tình thế nguy ngập như thế, mà lại sai Trương Phụ đem ba bốn mươi vạn quân ra ngoài, liệu triều đình ngươi có yên tâm chăng? Nay tính giùm các ông, chẳng gì bằng cùng Thái đô đốc đem quân về nước là hơn cả. Không thế thì một khi cờ ta trỏ, trống ta nổi, các ông ăn năn chẳng kịp đâu! Kinh Dịch có câu: “Cùng tắc biến, biến tắc thông” (Cùng thì biến, biến thì thông). Các ông sao không nghĩ thế, cứ khư khư cái tiểu tiết Trương Tuần(8), Hứa Viễn(9), ta e sĩ tốt của ngươi, ngày đêm thiết tha mong về, lại thêm cơm cháo chẳng no, tạp dịch liên tiếp, dẫu muốn đánh và giữ, đã dễ ai theo. Ngạn ngữ có câu: “Một buổi không có ăn, cha chon hết tình nghĩa”. Vả bọn Phương Mã là tướng thua trận, không thể nói chuyện mạnh được các ông nên nghĩ kỹ đi.

(1) Trong thư này, Nguyễn Trãi phân tích tình hình và so sánh lực lượng giữa hai bên nêu rõ sự trưởng thành và lớn mạnh về mọi mặt của quân ta đến mức độ đủ sức hạ thành, diệt viện vừa chiêu dụ Vương Thông, vừa đập tan những điều lừa phỉnh của hắn đối với quân Minh.

Trong thư này, Nguyễn Trãi phân tích tình hình và so sánh lực lượng giữa hai bên nêu rõ sự trưởng thành và lớn mạnh về mọi mặt của quân ta đến mức độ đủ sức hạ thành, diệt viện vừa chiêu dụ Vương Thông, vừa đập tan những điều lừa phỉnh của hắn đối với quân Minh.

(2) Tức là Lê Lợi.

(3) Lữ là một đơn vị quân đội gồm 500 người. Tả truyện có câu: “Hữu điền nhất thành, hữu chúng nhất lữ” 有田一城,有众一旅 nghĩa là ruộng có một thành

(10 dặm), quân có một lữ (500 người). Cũng có khi ghi là 有土一城,有众一旅 Hữu thổ nhất thành, hữu chúng nhất lữ.

(4) Sách Ngô tử trị bình có câu “phụ tử chi binh” 父子之兵 nghĩa là nói quân đội

một lòng đoàn kết chặt chẽ như tình cha con.

(5) Ở Trung-quốc, tháng 7 năm Giáp Thìn (1424) Minh Thành-tổ chết; tháng 6 năm Ất tỵ (1425) Minh Nhân tông chết

(6) Thổ mộc là công việc xây dựng lâu đài, cung điện. Nhà Minh xây dựng nhiều lâu đài, cung điện, nhất là việc xây dựng thủ đô Bắc-kinh rất tốn kém, bắt nhân dân phục dịch nặng nề.

(7) Hồng-Vũ là niên hiệu Minh Thái-tổ (1368-1399).

(8) và (9) Thời Đường, khi An Lộc Sơn làm loạn, hai tướng của Đường là Trương Tuần, Hứa Viễn giữ thành Tuy-dương, để che đỡ cho miền Giang, Hoài. Sau vì không có viện binh, lương hết thành hãm mà bị hại.
 
38. THƯ CHO THÁI ĐÔ ĐỐC(1)
Đệ ở Lam-sơn kính thư gửi lão huynh Thái-công. Kể ra kẻ sĩ quý ở gặp thời, đạo quý ở thực hành. Song đạo có thực hành được hay không la quan hệ ở thời có gặp hay không gặp. Vì thế anh hùng hào kiệt đời xưa, bình nhật ôm ấp điêu gì, ai mà chẳng muốn dốc ra thi thố để cho đạo sáng tỏ ở đời. Song thời có gặp hay không phải là ở tự trời vậy. Ngày xưa Bách Lý Hề(2) ở Ngu thì nguy mất nước, mà sang Tần thì Tần nên nghiệp bá, Lý Tả Xa(3) ở Triệu thì Triệu bị diệt, mà theo Hán thì Hán dấy nghiệp vương, nào phải là ở nơi này thì ngu mà ở nơi kia thì trí đâu. Chỉ là tại gặp thời hay không gặp thời mà nên thế. Lão huynh là bực tướng cũ của tiên triều, buổi đầu sang đánh Giao-chỉ, phá thành Đa-bang(4) thì ông bắc thang mây là lên thành trước, công to tực nhất. Rồi sau mỗi năm chinh phạt, cũng đều lập được chiến công. Song không may cho ông là không được đời biết, cho nên không được vượt lên trên người; gia dĩ lại bị khiển trách luôn, chí không được thỏa, đạo không được hành, rốt cuộc ngày nay lại bị Vương Thông lừa bán, thế lại là điều không may cho ông, cũng là điều rất không may cho Trung-quốc vậy. So với xưa Bách Lý Hề ở Ngu, Lý Tả Xa ở Triệu thì có khác gì. Nay quốc chúa(5) tôi vốn biết ông là hiền, muốn đặt ông vào địa vị đại thần để được nghe dạy bảo, không biết ý ông thế nào? Như Hàn Tín(6) bở Sở mà theo Hán chăng? Thì quốc chúa tôi sẽ sẻ cơm nhường áo, hẳn không kém gì Hán Cao Tổ; hay như Cơ Tử(7) không chịu làm tôi Chu chăng? Thì quốc chúa tôi sẽ xuống xe hỏi đạo, hẳn không kém gì Chu Vũ vương. Trong hai kế ấy, ông định kế nào? Vả nước dấy hay mất, thịnh hay suy, do ở vận trời, sức người không thể làm được. Nay ông lại về mà dùng cho Trung-quốc, thì hiện nay ở Trung quốc, bên trong có cái vạ tiêu tường, bên ngoài có cái lo Bắc khấu, nắng lut tiếp nhau, yêu nghiệt đến mãi, đại thần lấn át, cả nước chia lìa, tời làm táng vọng chẳng sớm thì muộn. Kẻ sĩ minh triết nên sớm biết cơ mầu. Khi các ông, không may mà gắp cái thời không thể làm được, lại không may mà không được thỏa cái chí có thể làm được, chinh như Đường Thái tôn bảo “Hết trung không ích gì” vậy. Nay kế hay của ông chẳng gì bằng thuận theo sở ngộ, nghe theo mệnh trời, nhân thời cơ này dựng nên công nghiệp, khiến cho dân ta may được thoát khổ lầm than, mà công trạng lớn lao của ông được rạng rỡ trong sử xanh(8), há chẳng tốt đẹp ư? Nếu cứ khư khư giữ cái tiểu tiết, thì thực không phải là bực hào kiệt biết thời vậy. Kính xin xét định. Thư nói không hết.

(1) TThái đô đốc là đô đốc Thái Phúc. Sau khi ra hàng, Thái Phúc tỏ ra thức thời, tỉnh ngộ và hết sức giúp đỡ Lê Lợi - Nguyễn Trãi trong việc du hàng quân Minh ở các thành bị bao vây. Vì vậy, Lê Lợi - Nguyễn Trái kính trọng Thái Phúc và có ý muốn lưu ông ở lại nước ta, mời giữ một chức tước cao hoặc giúp đỡ như một cố vấn, vừa để dùng ông vừa để tránh cho ông sự hãm hại của nhà Minh. Bức thư này có lẽ gửi vào khoảng cuối năm 1427 trước khi quân Minh về nước. Nhưng Thái Phúc từ chối và khi về nước thì ông bị nhà Minh kết án xử tử.

(2) Bách Lý Hề là người thời Xuân thu, trước làm đại phu nước Ngu, 7 năm không thi thố gì. Khi Tấn diệt nước Ngu, bắt Hề, đem làm người thần bộc đi đưa dâu vợ Mục công nước Tần. Hề lấy làm hổ, bỏ đi, bị người Sở bắt được. Tần Mục công nghe biết Hề là người hiền, lấy da 5 con dê đem chuộc Hề về, rồi dùng làm tướng. Hề giúp Tần làm nên nghiệp bá.

(3) Lý Tả-xa người thời Hán, trước làm quan ở nước Triệu. Khi Hán đánh Triệu, Triệu vương Thành-an quân Trần Dư không theo kế của Tả-xa, sau Triệu bị quân Hán đánh thua, Hán Tín bên Hán mời được Tả-xa đem về làm quân sư, giúp Hán Cao tổ được nên cơ nghiệp.

(4) Bản chữ Hán in lầm Đa na(多那), chính là Đa-bang(多邦).

(5) Quốc chúa tức là Trần Cảo

(6) Hàn Tín người thời Hán, trước theo Hạng Vũ, Vũ không biết dùng. Sau Tín bỏ Sở theo về Hán. Bái công trọng dụng, nhường áo sẻ cơm cho Tín rồi trao cho chức Đại tướng.

(7) Cơ Tử là tôi nhà Ân, khi Ân bị diệt, ông không chịu là tôi nhà Chu. Vũ vương nhà Chu thường lún mình hỏi kế của ông. Sau phong cho ông ở Triều-tiên.
(8) Ngày xưa chưa chế được giấy, phải chép sách và mảnh tre cật xanh, vì thế gọi là “thanh sử” (sử xanh).

39. THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Thư bảo cho tổng binh ngươi biết. Cổ nhân có nói: “Giặc đến lúc cùng, chớ nên đuổi bức”(2). Nay ta định đem ba bốn mươi vạn quân vây bốn thành của ngươi, chỉ em chim cùng thì mổ, thú cùng thì vồ, nên ta không đem quân toàn thắng của cùng quân tất tử để tranh hơn thắng với lũ trẻ con vậy. Tuy nhiên, dù tiểu địch giữ vững, vẫn bị đại địch bắt được(1). Kể lấy sức nặng ngàn cân đè lên trứng chim, thì chưa hề có trứng nào không vỡ nát. Cái chuyện đánh thành hãy gác một bdên. Hoặc giả buông lỏng cho bè lũ ngươi, không để ý đến, ta hãy cởi giáp nghỉ binh, vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiềngỉa, thu dụng nhân tài, sửa sang khí giới, luyện tập binh tượng, dạy cho những phương pháp ngồi, dậy, tiến, lui, lại lấy nhân nghĩa mà hun đúc, khiến ai ai cũng hết lòng thành, thân với kẻ trên, chết cho người trưởng, lấy đấy mà ứng phó với địch, kẻ nào theo ta sẽ sống, kẻ nào trái ta sẽ chết, phàm ta trông cậy là thế mà thôi. Một ngày kia việc nước ngươi hơi thư, lòng tham lại mống, hoặc lại đem ba bốn vạn quân sang, thì ta đối phó thực ung dung lắm. Đếnn hư bọn các ngươi, không đánh mà bị bắt thì chẳng phải nói nữa! Trong hai chước đó, ý ta chưa quyết chước nào! Không biết các ông có cho việc ta không để ý đến là thượng sách chẳng? Xin các ông lui mà chỉ giáo cho, thực là may lắm.

(1) Đông-quan là thành lũy trung tâm của địch, có thành cao, hào sâu, quân đông (khoảng 4 vạn). Đối với thành này, Lê Lợi - Nguyễn Trãi không chủ trương hạ thành mà chủ trương kiên trì bao vây và dụ hàng. Dù Vương Thông ngoan cố không chịu giảng hòa rút quân thì sau khi viện binh bị tiêu diệt, thành Đông-quan cũng phải đầu hàng. Thư này Nguyễn Trãi chỉ cho Vương Thông biết quân ta không hạ thành thì thất bại cũng đến với chúng.

(2) Sách Tôn tử có câu “Cùng khấu vật truy” (窮寇勿追 giặc đã đến lúc cùng, thì chớ nên đuổi theo). Ý nói, e chúng quay lại đánh liều.

(3) Câu này ở thiên “Mưu công” của Tôn tử là “Tiểu địch chi kiên, đại địch chi cầm”, 小敵之堅,大敵之擒 ý nói kẻ yếu nhỏ không lượng sức mà địch với kẻ mạnh lớn, dù cố giữ vững thế nào, kết cục sau vẫn bị kẻ mạnh hơn đánh bắt được.
 
40. THƯ DỤ CÁC THÀNH THANH-HÓA, NGHỆ-AN(1)
Bảo cho các tướng hiệu quân nhân ở các thành Thanh-hóa, Nghệ-an biết: Xưa nay bỏ mình báo nước là đại tiết của bề tôi; định công ban thưởng là thường điển của nhà nước. Nay bọn ngươi lấy lòng trung nghĩa, lấy khí dũng cảm, đánh kẻ vua ghét, nhiều lần rạng công. Xưa bản triều ta(2), đương buổi hưng thịnh đời tiên hoàng, Chiêm-thành trái mệnh, xâm lấn biên ấp nước ta(3), ông cha các ngươi đã hết lòng gắng sức lo báo nước nhà, đánh đuổi giặc Chiêm, thu về bờ cõi, tiếng thơm công lớn, sử sách lưu truyền. Nay giặc Minh bất đạo, trái với lòng trời, độc vũ cùng binh, mưu mở rộng đất, sinh dân khổ sở, hơn hai mươi năm. Song, vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại. Nghĩa binh nổi dậy, cuốn đất đuổi tràn, trong mấy tháng trời, khôi phục đất cũ. Duy một thành Đông-quan, tướng giặc Vương Thông, hồn đã lìa xa, còn chút hơi tàn, mà chỉ chực lại hung hăng dương cánh. Ta xem các quân ở Kinh lộ(4) cùng là các quân Dực-thánh tả hữu Thiên Trường, Thiên-cương(5) ngày trước, hoặc là đứng đầu Nam ban Bắc ban, hoặc là tình thân hoàng tộc ngoại thích, song vẫn chưa thấy mấy người hết lòng gắng sức, dựng được công to. Thế mà bọn người lấy chức phận phiên thần, biết nghĩ đến công nghiệp của ông cha ngày trước, hết trung với nước, cùng lòng hợp sức, mưu rửa quốc sỉ, đánh hơn lấy được, đến đâu cũng là lập được công, trung thành như thế, thực đáng thưởng khen. Vậy sai ban thưởng để đền công lao. Các người cố đi!

(1) Thanh-hóa, Nghệ-an là những căn cứ địa đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Lam-sơn, nhân dân và nghĩa binh ở Thanh - Nghệ đã có nhiều cống hiến quan trọng vào thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Bức thư này, Lê Lợi biểu dương và khuyến khích tinh thần chiến đấu của nghĩa binh vùng Thanh, Nghệ. Toàn thư (1.10, 38a) có trích lược một đoạn bài này, nhưng lại đề là “Dụ tướng hiệu quân nhân Tân-bình, Thuận-hóa”. Theo Toàn thư, bài này ban bố vào tháng 8 năm Đinh mùi (1427).

(2) Bản triều ở đây chỉ nhà Trần.

(3) Vào cuối thời Trần, trong khoảng năm 1371-1390, Quân Chiêm nhiều lần tấn công ra vùng Thanh-hóa, Nghệ-an và tiến đánh cả kinh thành Thăng-long, gây ra rất nhiều thiệt hại, nhưng cuối cùng đều bị đánh lui.

(4) Nhà Trần đổi 24 lộ đời Lý làm 12 lộ. Kinh lộ là lộ thuộc về Kinh đô.

(5) Dực-thánh, Thiên-trường, Thiên-cương là tên gọi những tổ chức quân đội thời nhà Trần.

41. LỆNH DỤ CÁC TƯỚNG HIỆU QUÂN NHÂN Ở NGHỆ-AN, TÂN-BÌNH, THUẬN-HÓA(3)
Ta khởi nghĩa ở đất các ngươi, nay muốn thành công, mong các ngươi giữ chung thủy một lòng, đá vàng một tiết, để toàn các nghĩa quân thần phụ tử. Ta biết các người đều là người tài trong nước, nhưng ngày trước về thời Hưng-khánh(2) Trùng-quang(3), chỉ uổng hư danh, không nên sự nghiệp, đó là vì nhiều người nắm quyền, đại thần không biết, nên các ngươi chỉ phí sức thôi. Nay thiên hạ đã nhất thống, ta cùng các ngươi, nghĩa như cha con, mong hết một lòng, thu lại bờ cõi. Xưa nay khanh tướng phong hầu tưởng cũng như các ngươi chẳng khác. Hãy chỉnh đội ngũ của các ngươi, hãy luyện quân lính của các ngươi. Dẹp xong quân tàn khấu, sẽ chia nửa quân cho về làm ruộng. Nay trời mượn tay ta, việc không dừng được. Ai theo mệnh tha thì phá giặc, sống mà có công; ai không theo mệnh ta thì chết, chẳng được việc gì. Mỗi đội đều sao viết lệnh này ra một bản, ngày đọc ba lần cho quân nhân đều biết.

(1) Theo Toàn thư (1.10, 32b-33a), lệnh dụ này gửi vào tháng 4 năm Đinh mùi (17-4 đến 25-5-1427). Bài này không có trong phần Quân trung từ mệnh tập của bộ Ức-trai di tập do Dương Bá Cung biên tập. Tác giả xếp vào phần Văn loại, nhưng chúng tôi thấy không hợp lý nên đưa vào phần Quân trung từ mệnh tập.

(2) Hưng-khánh là niên hiệu của Giản-định đế Trần Ngỗi (1407-1408).

(3) Trùng-quang là niên hiệu của Trùng-quang đế Trần Quý Khoảng (1409-1413).
 
42. THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Kể ra, nhà lớn gần xiêu, một cây gỗ khôn hay chống đỡ; đê dài sắp vỡ, một vốc đất khó thể chi trì. Nếu không biết lượng sức mà cứ cưỡng làm, thì ít khi không thất bại. Việc ngày trước bất tất bàn nữa. Lấy sự thể ngày nay mà nói, chỗ trông cậy của các ông chỉ là quân cứu viện mà thôi. Ngày tháng giêng năm nay, có sắc cho bọn An-viễn hầu, Bảo-định bá, Thôi đô đốc, Hoàng thượng thư, Lý ngự sử(2) cùng thổ quan là Nguyễn Huân(3) đem quân sang, hẹn trong tháng 4 tiến binh vào cõi Giao-chỉ. Rồi trong một tháng(4) quân đến cửa ải của ta. Quân sĩ ở biên giới của ta dụ quân ấy đến ải Chi-lăng(5). Ngày tháng 2(6) năm nay quân ta đánh một trận mà tan vỡ, binh mã quân tiên phong nhất thời quét sạch, mà tổng binh An-viễn hầu thì chết ở trận tiền(7). Đến ngày 25(8), quân ta lại đánh trận nữa, mà toàn quân tan hết; Bảo-định bá thì tử trận, còn bại quân chạy tản vào rừng đều bị quân ta bắt được. Việc đến như thế, cũng không phải là ý ta muốn, mà do tướng sĩ thủ biên của tôi làm thôi, khiên tôi lại thêm nặng lỗi. Ngài cầm quân nhân nghĩa, khi tới cõi Giao-chỉ đã biết lấy cái họa cùng binh độc vũ làm răn, xem bức thư ngài tâu xin lập họ Trần thì ân ý của ngài không nỡ phụ. Nay lấy một thành Đông-quan cỏn con, đem cả nước lại vây mà đánh, vẫn là rất dễ, song tôi sở dĩ làm như thế này, chính là cảm cái ơn ngày trước của ngài, lại để trọn cái lễ nước nhỏ thờ nước lớn. Nếu ngài biết chỉnh đốn quân sĩ, cởi giáp mở thành, lại theo lời ước trước, thì ngài có thể toàn quân về nước, mà cái tệ hiếu đại hí công(i) của Hán Đường, từ đây chấm dứt, và cái đạo hưng diệt kế tuyệt(10) của Thang Vũ lại thấy cử hành. Thế chẳng tốt đẹp hay sao? Nếu còn do dự chưa quyết, tôi tướng sĩ của tôi nhọc về chinh chiến, bỏ cả nông tang, quyết tâm đánh gấp, thế không thể ngăn. Đến lúc bấy giờ thì làm sao được nữa. Như thế lại càng thêm nặng lỗi cho tôi thôi. Thư này tới nơi, cúi xin trả lời cho biết.

(1) Tháng 9 năm Đinh mùi, 15 vạn viện binh nhà Minh do Liễu Thăng chỉ huy, theo hai đường tiến vào nước ta: đạo quân chủ yếu do Liễu Thăng trực tiếp chỉ huy gồm 10 vạn quân từ Quảng-tây sang, đạo quân thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy gồm 5 vạn quân từ Vân-nam sang. Theo kế hoạch “vây thành diệt viện” đã chuẩn bị trước, quân ta vừa tiếp tục vây hãm thành Đông-quan, vừa tập trung lực lượng đánh tan viện binh của địch, tiêu diệt đạo quân Liễu Thăng. Chiến dịch Chi-lăng - Xương-giang bắt đầu ngày 18 tháng 9 (ngày 8-10-1427) khi quân Liễu Thăng tiến vào biên giới nước ta và kết thúc thắng lợi vào ngày 15 tháng 10 (ngày 3-11-19427). Bức thư này gửi cho Vương Thông khi chiến dịch lịch sử đó chưa kết thúc nhưng đã giành được những thắng lợi oanh liệt: ngày 20 tháng 9 (ngày 10-10-1427) tiêu diệt đội quân tiên phong và giết chết Liễu Thăng tại Chi Lăng, ngày 25-9 (ngày 15-10-1427) giết chết phó tổng binh Lương Minh và giết chết hàng vạn quân địch ở Cần-trạm.

Trong Ức-trai di tập do Dương Bá Cung biên tập, bức thư này xếp vào phần Văn loại, quển 3. Căn cứ vào nội dung bức thư, chúng tôi đưa vào phần Quân trung từ mệnh tập cho hợp lý hơn.

(2) An-viễn hầu Liễu Thăng được nhà minh phong làm tổng binh, mang ấn Chinh lỗ phó tướng quân, chỉ huy đạo viện binh 10 vạn quân tiến sang theo đường Lạng-sơn. Dưới Liễu Thăng có Bảo-đinh bá Lương Minh là Tả phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụ là Hữu tham tướng. Ngoài ra, nhà Minh lại cử thêm Công bộ thượng thư Hoàng Phúc sang trấn thủ và Binh bộ thượng thư Lý Khánh phụ trách quân vụ. Trong bức thư này chép Lý ngự sử, vậy có lẽ Lý Khánh kiêm cả chức ngự sử.

(3) Nguyễn Huân hay Nguyễn Đức Huân là một tên Việt gian làm quan cho quân Minh đến chữ Hữu bố chính sứ.

(4) Theo Toàn thư thì đến ngày 18 tháng 9 (ngày 8 tháng 10-1427) viện binh của nhà minh mới kéo đến biên giới nước ta.

(5) Ải Chi-lăng nay thuộc xã Chi-lăng, huyện Chi-lăng tỉnh Lạng-sơn.

(6) Theo Toàn thư thì ngày 20 tháng 9 (ngày 10 tháng 10-1427), cánh quân tiền phong do Liễu Thăng chỉ huy tiến vào cửa ải Chi-lăng bị phục binh của ta tiêu diệt hoàn toàn. Trong thư chép tháng 2 là không đúng, vì từ lúc bấy giờ viện binh của giặc chưa vào đến biên giới nước ta, và có lẽ là nhầm ngày 20.

(7) Liễu Thăng bị giết ở núi Mã-yên trong ải Chi-lăng.

(8) Ngày 25 tháng 9 (ngày 15-10-1427).

(9) Hiếu đại hí công 好大喜攻: thích khoe khoang uy lực, hàm lập vũ công.

(10) Hưng diệt kế tuyệt 興滅繼: làm cho nước đã diệt được phục hưng, làm cho dòng họ đã tuyệt có kế tục.
 
43. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Tri phủ phủ Thanh-hóa Lê Mỗ phúc thư gửi Tổng binh đại nhân cùng liệt vị đại nhân: Mới rồi tôi gửi thư sang, chưa được hồi đáp. Người thông sự sai đến thì khẩu thuyết vô bằng. Song việc trước đã qua, nói không kịp nữa. Từ nay về sau, đứng nên lại thế. Ngài nếu biết nghĩ đến dân nước An-nam như con trẻ không biết gì, không nỡ để họ vô tội mà chịu chết, thì lời ngài nói trước khả dĩ không phụ vậy.

(1) Nhận được thư 42 biết tin viện binh thất bại, Liễu Thăng, Lương Minh tử trận, Vương Thông rất lo sợ nhưng còn dùng dằng, hoài nghi và chưa trả lời thư của Lê Lợi. Nguyễn Trãi viết thư này gửi cho Vương Thông.

Đây là búc thư cuối cùng gửi cho quân Minh được sưu tập trong Ức-trai di tập do Dương Bá Cung biên tập. Trong Ức-Trai di tập, bức thư chấm dứt ở đây. Nhưng theo những văn kiện mới của Nguyễn Trãi do ông Trần Văn Giáp phát hiện, xác minh và công bố gầy đây thì thư 43 trên chỉ mới là đoạn đầu bức thư dài hơn của Nguyễn Trãi gửi cho Vương Thông. Xem thêm toàn bộ bức thư ở mục “những văn kiện mới tìm thấy”.
 
44. TỜ TẤU CẦU PHONG(1)
(Năm Đinh vị là năm thứ 3 niên hiệu Thiên-khánh, tức là năm thứ 2 niên hiệu Tuyên-đức, nhà Minh (1427), từ tháng tám, nhân Lê Thái tổ đã tìm được Hồ Ông ở nước Lão-qua, tên là Trần Cảo(2), nói là con cháu họ Trần, quyền lập làm vua, đặt niên hiệu là Thiên-khánh sai sứ sang nước Minh xin phong).

Cháu ba đời của tiên Trần chúa là Trần Cảo cùng đại đầu mục là Lê Lợi ở nước An-nam, kính cẩn tâu về việc cầu phong.

Thần trộm nghĩ: Nước thần ở lánh tại miền xa vắng, xa cách phong hóa Trung-hoa. Khi Thái tổ Cao hoàng đế(3) mới lên ngôi, trước các nước tổ tiên thần đã vào cống. Đặc ân khen ngợi, phong cho tước vương. Từ đấy đời đời giữ cõi bờ, thường không thiếu triều cống. Mới rồi họ Hồ cướp nước, lật đổ tòng tự nhà thần; trên dối triều đình, dưới khổ dân chúng; trời giáng tai vạ, quan dân lìa lòng. Thái tôn hoàng đế(4) không nỡ để dân một phương khổ sở, liền dấy quân hỏi tội. Sau khi dẹp yên, lại xuống chiếu tìm con cháu họ Trần. Bảo rằng con cháu họ Trần đều đã chết hết, không còn ai có thể kế tập, bèn lại xin đặt quận huyện, rồi đem con cháu họ Trần là bọn Trần Nguyên Hy, Trần Sư Tích, Trần Quang Chỉ, vài chục người đưa về Kinh sư để ai trí. Lại mở đặt ba ty Đô Bố Án cùng các nha môn phủ huyện vệ sở(5), và đặt quan cai trị. Song các quan đặt ra không thể theo ý của Triều đình yên vỗ người xa, lại chỉ chăm bóc lột dân để sung sướng một mình. Người giữ trách nhiệm địa phương thì không biết đại thể, tối đường thừa tuyên(6); kẻ ở đài Ngự sử thì ngậm miệng làm thinh, ngồi nhìn dân khổ; quan chăm dân thì không lo nuôi nấng, chỉ vu vét vơ; tôi làm tướng thì không để lòng vệ dân, hoành hành tàn ngược. Còn như bọn hoạn quan thì chuyên mặt thu lượm, bóc lột lương dân, bắt kiếm ngọc tìm vàng, kiệt chằm trơ núi, đòi hỏi nhặt nhạnh, không còn sót gì. Muốn tiền của có nhiều, thì đục khoét của dân mà lấp hố dục; muốn nhà cao cửa đẹp, thì cướp việc mùa màng mà bắt dựng xây. Thuế công thu vào một phần, giám lâm(7) ăn ngoài quá nửa. Quan lại thương dân chúng thì tuyệt không có ai, mà xem dân như cừu thù, thì đều như thế cả. Càng ngày càng tệ, dân sống không yên, như đắm nước sâu, như thui lửa nóng. Khốn nỗi trời thì cao, mà Triều đình xa, tình dưới không kêu thấu được. Song đói rét thiết thân thì không còn đoái gì lễ nghĩa, bèn đem nhau để giết quan lại, đó là thế bất đắc dĩ trong nhất thời, để mong bớt chút khổ cực ở trong nước lửa mà thôi. Thần lánh mình ở nước Lão-qua hơn mười năm, đến giờ người cả nước không bảo nhau mà cùng một lời tự ý mời xin nài ép. Trong lúc thảng thốt, thần không kịp kén chọn, đã phải thuận lòng dân chủ để chờ mệnh Triều-đình. Ngày 11tháng 11 năm Tuyên-đức thứ 1, thần về đến bản quốc, thấy người trong nước đã thu phục được hết bờ cõi đất đai của tổ phụ thần. Các thành trì Tân-bình, Thuận-hóa, Nghệ-an, Diễn-châu, Thanh-hóa, Tiền-vệ, Xương-giang, Trấn-di, Thị-cầu, Tam-giang đều đã mở cửa cởi giáp để giảng hòa. Các quan vệ sở châu huuyện cùng tất cả quan quân, thần đều thu nuôi hết cả, không xâm phạm mảy may. Còn bọn Tổng binh Vương Thông, cùng Trần Trí, Lý An, Mã Anh, Phương Chính, nội quan Sơn Thọ, Mã Kỳ cũng đã cùng thần hòa giải. Thần đã xin bọn Vương Thông sai người đem thư về tâu. Nhưng bọn ấy vừa sợ tôi, vừa hoài nghi, nên không dám sai đi. Bọn thần tự biết mang tội rất nặng, không biết tiến hoái đường nào. Song thần trộm nghĩ từ xưa thánh nhân như Thang Võ đánh kẻ có tội mà cứu dân, hết thảy đều xuất tự lẽ trời chí công, không thể có chút tư ý ở trong. Vì thế nên nhà Hạ, nhà Thương tuy đã mất, mà con cháu còn được phong ở nước Kỷ nước Tống. Việc đánh việc phong, chưa từng không theo ý trời. Đến sau như nhà Hán, nhà Đường thích lớn ham công, mà cũng chỉ ky my nước thần mà không để ý. Huống chi điều chương của Thái-tổ Cao hoàng đế để lại đời sau rành rành ở đó, chiếu lập con cháu họ Trần của Thái-tôn Văn hoàng đế mực vẫn chưa khô. Cúi nghĩ Hoàng đế bệ hạ là bực thánh thần văn võ, trí tuệ thông minh, đức hiếu sinh(8) đây đó thấm đều, lòng nhất thị(9) xa gần không khác. Tất như Hán Võ hạ chiếu bỏ Luân-đài, tất như Đường Thái rút quân ở Tân-thị, tất tuân theo điều chương của Thái-tổ, tất thi hành chiếu thư của Thái-tôn, tất xá cho thần tội lỗi như núi gò, tất tha cho thần hình phạt bằng phủ việt, khiến thần được giữ đất cõi Nam, nộp cống cửa khuyết. Nếu thế thì không những may mắn cho một mình thần mà dân cả nước thần, không ai là chẳng vui mừng nhảy nhót, cảm đội ơn đức Triều đình, không khác gì khí xuân làm tươi cỏ héo, gió ấm làm tan nước đông vậy. Thần xin ghi dạ khắc xương, hết lòng trung thận, tâu biểu xưng thần, tiến cống không thiếu. Ngoài ra việc sai người dâng biết tiến cống thì thần chưa dám tự chuyên. Vậy kính cẩn tâu bày, cúi chờ sắc chỉ.

(1) Cương mục (q. 14, 2b-23b) có trích lược bài biểu này và cho rằng bài biểu này do sứ bộ gồm có Hàn lâm đãi chế Lê Thiếu Dĩnh và Chủ thủ sứ Lê Quang Cảnh làm Thầm hình viện sứ, Quốc tử bác sĩ Lê Đức Huy làm Thầm hình viện phó sử sang Yên-kinh trong khoảng tháng 11 năm Đinh mùi (1427). Nhưng theo Toàn thư (1. 10, 44b-46b) thì sứ bộ Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh ra đi ngày 29 tháng 11 năm Đinh mùi (ngày 17-12-1427) để sang trần tình với nhà Minh”. Sứ bộ này mang tờ biểu và sản vật địa phương cùng bản danh sách số tù binh trao trả. Trong số văn kiện của Nguyễn Trãi mới được phát hiện, có “bài biểu tiến công, tâu trình tạ tội”, kém theo danh sách cống phẩm, sản phẩm địa phương và số tù binh trao trả đúng như Toàn thư đã chép. Đó chính là tờ biểu do sứ bộ Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh mang sang Yên-kinh. Xem bài 22 Trước đó, cũng trong tháng 11, nhưng trước ngày 29, Toàn thư có chép: Lê Lợi “sai người dâng biểu của Cảo xin lập dòng dõi họ Trần” (1. 10, 44b). Tờ biểu này chuyển sang Quảng-tây, Vân-nam, mỗi nơi một bản, và bản gửi sang Vân-nam được Mộc Thạnh gửi ngay về kinh. “Tờ tấu cầu phong” đứng tên Trần Cảo chính là tờ biểu này. Lời Tiểu dẫn của Ức-trai di tập cũng cho tờ biểu này gửi sang nhà Minh vào tháng 8 năm Đinh mùi (1427). Theo Toàn thư (q. 10, 57a), người chuyển tờ biểu này cũng là Lê Thiếu Dĩnh. Cương mục đã lẫn lộn và ghép hai sự kiện, hai văn bản ngoại giao làm một. Tờ tấu cầu phong do Lê Thiếu Dĩnh gửi sang nhà Minh vào tháng 8, đến tháng 11 sứ bộ Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh lại mang “biểu tiến công và tâu trình tạ tội” sang Yên-kinh.

(2) Xem chủ thích (5) bài 21. Bản chữ Hán chép nhầm là Trần Địch

(http://img217.imageshack.us/img217/5291/14660493.jpg); chữ Địch có lẽ là do chữ Phủ (http://img690.imageshack.us/img690/2136/91016300.jpg) viết nhầm ra. Trần Phủ là tên Trần Nghệ tông, mà Trần Cảo xưng mình là cháu ba đời. Như vậy là bản in viết nhầm tên cháu thành tên ông.

(3) Tức là Minh Thái tổ.

(4) Tức là Minh Thành tổ (1403-1424).

(5) Sau khi chiếm nước ta, nhà Minh đổi tên là quận Giao-chỉ, chia làm 15 phủ, phủ chia làm nhiều huyện (tổng cộng 191 huyện). Vệ, sở là những tổ chức quân đội nhà Minh đặt ra để trấn giữ các phủ, huyện và những nơi hiểm yếu.
(6) Thừa tuyên là vâng mệnh đi tuyên bố đức hóa của triều đình.

(7) Giám lâm là chức quan bất thần mới được đặt ra để trông coi.

(8) Hiếu sinh: Yêu tiếc những sinh mệnh. Kinh thư có câu: “Hiếu sinh chi đức - hiệp vu dân tâm” (好生之德洽于民心 đức hiếu sin thấm khắp lòng dân).

(9) Nhất thị: coi như một. Bải “Nguyên nhân” của Hàn Dũ có câu: “Thánh nhân nhất thị nhi đồng nhân” (聖人一視而同仁 đấng thánh nhân coi mọi người như nhau mà cùng một lòng nhân ái đối đãi).
 
45. CHIẾU KHUYẾN DỤ HÀO KIỆT(1)
(Năm Đinh vị (1427), Lê Thái tổ ở dinh Bồ-đề trên sông Lô. Xuất tự sử ký).
Hiện nay các thành đã phá, duy còn thành Đông-quan là chưa hạ. Vì thế ta nằm không yên chiếu, ăn không ngon miệng, sớm hôm lo lắng. Vả bên cạnh ta chưa có được người tài. Ta tuy làm chủ tướng, nhưng một thì già yếu bất tài, hai thì học ít biết nông, ba thì nhiệm vụ nặng nề khó gánh vác nổi, mà tướng quốc, thái bảo, thái phó chưa đặt, thái úy, đô nguyên súy còn khuyết, hành khiển các quan khác mười phần mới đươc một hai. Vì thế ta nhún mình tỏ lòng thành thực, khuyên các bực hào kiệt đều nên cùng nhau gắng sức, cứu đỡ muôn dân, đừng có kín tiếng giấu tài, khiến thiên hạ phải hãm trong lầm than mãi mãi. Hoặc có người cao tiết như Tứ hạo(2) gia độn(3) như Tử Phòng(4), cũng hãy nên vì dân cứu nạn, đợi khi thành công rồi có muốn được thỏa chí xưa, lại về rừng núi thì ta cũng không ngăn giữ.

(1) Toàn thư (1. 10, 34) chép bài Chiếu khuyến dụ hào kiệt này vào tháng 4 năm Đinh mùi (27-4 đến 25-5-1427). Nếu sắp xếp các bài trong Quân trung từ mệnh tập theo trình tự thời gian thì, theo Toàn thư, phải điều chính lại thứ tự các bài 40, 41, 44, 45.

Bài 41 và 45 ban bố vào tháng 4 năm Đinh mùi (1427).

Bài 40 ban bố vào tháng 8 năm Đinh mùi.

Bài 44 gửi sang nhà Minh vào tháng 8 năm Đinh mùi.

(2) Tứ Hạo: bốn ông già ở cuối đời Tần là Đông Viên công, Lộc Lý tiên sinh, Lý Quý, Hạ Hoàng công, tránh loạn ẩn ở núi Trường-sơn. Hán Cao tổ muốn mời ra không được.

(3) Gia độn: Gia là tốt, độn là lui ẩn. Chữ ở quẻ Độn Kinh dịch. Ý nói là sự thoái ẩn hợp với chính đạo.

(4) Tử Phòng: Trương Lương tự là Tử Phòng, giúp Hán Cao tổ đánh thiên hạ. Khi công thành được phong Lưu hầu rồi ông lui về theo học thuật thần tiên.
 
46. TỜ TÂU VỀ VIỆC TÌM HỎI CON CHÁU HỌ TRẦN(1)
(Bấy giờ báo tang Trần Cảo, nhà Minh sai sứ sang dụ, khiến tìm con cháu họ Trần tâu lên để ban mệnh kế lập).

Thân tộc họ Trần, trước bị Hồ Quí Ly giết hết, không thấy một ai. Năm Tuyên Đứcthứ 1 (1426) mới tìm được ở đất Lão-qua Trần Cảo xưng là con cháu họ Trần. Năm Tuyên-đức thứ 2 (1427), Trần Cảo về nước, thì người cả nước đều qui phụ, đã sai thần Lê Lợi cùng các đầu mục gửi thư cho quan Tổng binh xin rút quân; năm Tuyên-đức thứ 2 đã sai Lê Thiếu Dĩnh dâng biểu trần tình tạ tội, không ngờ thấm thoát mấy ngày, Trần Cảo ốm chết. Con cháu họ Trần hiện nay thực không còn ai. Nếu quả có còn ai, bọn thần tuy chưa phụng sắc, cũng đã phải gõ cửa quan mà xin mệnh, lẽ nào ân chiếu như thế mà thần lại mang lòng khác, việc đó tất nhiên không có. Lại trong sắc có truyền phải trả về hết những quan lại quân nhân còn giữ lại. Thần lấy làm lo sợ, không dám yên lòng. Đó là khi trước quan quân sang chinh thảo, người nước thần sợ bị giết chóc, liền đem nhau ra giữ gìn phong bị, làm kế tự vệ, không khác gì chim cùng thì mổ, thú cùng thì vồ. Trừ những người đã tử thương ở trước lưỡi gươm mũi giáo ra, những quân nhân hiện còn, thần đã sai Thiếu Dĩnh dâng danh sách. Thần lại hết sức tìm tòi, nay theo lời những người đầu mục kỳ lão trong nước thì những hạng người nói trên thực không còn ai cả.

(1) Sau khi quân Minh rút khỏi nước ta, ông vua bù nhìn Trần Cảo biết vai trò của mình không còn nữa, nên lo sợ bỏ trốn vào châu Ngọc-ma; nhưng rồi bị bắt vào thành Đông-quan và uống thuốc độc chết ngày 10 tháng 1 năm Mậu thân (ngày 26-1-1428). Ngày 15 tháng 3 (ngày 30-3-1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế và sai sứ sang cầu phong nhà Minh. Nhưng nhà Minh vẫn bắt Lê Lợi phải tìm con cháu nhà Trần lập nên làm vua. Đây là tờ tâu của Lê Lợi về việc tìm kiếm con cháu họ Trân. Theo Toàn thư (q. 10, 61b), ngày 19 tháng 10 (ngày 25-11-19428) Lê Lợi phái Hà Lật sang Minh cống sản vật và tâu về việc tìm kiếm con cháu họ Trần. Tờ tâu này có lẽ do Hà Lật đem sang.
 
NHỮNG VĂN KIỆN MỚI TÌM THẤY
1. LẠI GỬI THƯ TRẢ LỜI CHO VƯƠNG THÔNG(1)

(Tháng ba Vương Thông nhận được thư của ta, nói ra nhiều câu hỗn xược; lại dụ dỗ dân cho làm quan chức (ngụy) để cho nhân dân phản bọn ta. (Cho nên) vua sai viết thư đáp lại, tùy theo từng việc mà trả lời).

Kể ra, người khéo dụng binh, đem quân yếu mà chống chế quân mạnh, lấy ít người mà đối phó với quân dịch nhiều người, biến khối nhỏ thảnh khối lớn, xoay thế nguy thành thế vững. Chỉ có mấy điều ấy thôi. Nay tôi hãy tính cho các ông nghe, các ông có sáu điều phải thua:

1. Trời và người không ưa, vận hưng thịnh gần hết, là một điều đáng thua.

2. Đóng quân ngồi giữ thành trơ trọi, thế đã cùng quẫn, quân cứu viện không đến được, là hai điều đáng thua.

3. Khí thế của quân lính nhụt kém, không chịu theo lệnh sai bảo, là ba điều đáng thua.

4. Hết đường kiếm củi, cắt cỏ, lương cỏ túng thiếu, là bốn điều đáng thua.

5. Nước lụt màu hè tràn ngập, tường và cừ sách sạt đổ, là năm điều đáng thua.

6. Người nước tôi đã bị hãm lâu ở trong thành, bị cùng khốn, muốn được về nhà, tất có nội biến xảy ra, là sáu điều đáng thua.

Đã mắc vào trong sáu điều đáng thua ấy mà không tỉnh ngộ, người khéo dụng binh có làm thế đâu.

(1) Thư này tóm lược hơn nhiều nhưng có một số ý và lời gần như thư số 35 (phần Quân trung từ mệnh tập trong Ức-trai di tập). Nhưng theo lời tiểu dẫn thì thư này gửi cho Vương Thông hồi tháng 3 năm Đinh mùi (1427): “Tháng 3, Vương Thông nhận được thư của ta,nói ra nhiều câu hỗn xược, lại dụ dỗ dân theo làm quan chức để cho nhân dân phản bọn ta”. Điều đó có phần phù hợp với một đoạn trong Toàn thư (q. 10, 30b): tháng 3 năm Đinh mùi… “Hạ lệnh cho các tướng hiệu quân nhân các lộ Quốc-oai, Tám-đái: phàm thấy thư của giặc lừa dối dụ dỗ, đe dọa huyễn hoặc nhân tâm mà trình riêng với tướng của mình thì bị chém”. Vì vậy, tuy có những ý và lời giống nhau, thư này không phải là bản tóm lược thư số 35, mà có thể là một bức thư khác gửi cho Vương Thông vào tháng 3 năm Đinh mùi (28-3 đến 26-4-1427).
 
2. THƯ GỬI CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Ta thường nghe, người chuyên giữ công việc từ ngoài cửa thành trở ra mà làm việc tùy tiện, là trách nhiệm của tướng soái; thờ nước lớn mà biết đạo sợ trời, là lòng thành của nước nhỏ. Nếu có thể đều làm được hết phận sự, thì lòng người lẽ trời cũng cùng thân với mình. Trước đây ta nhiều lần gửi thư đến ông, không ngại tần phiền, thực lòng cho là: đồ binh là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy hiểm, việc hưng thịnh bại vong của một nước, nhân dân sống hay chết đều quan hệ ở điều đó. Thế mà ông vẫn lơ là không nghĩ, lại không có một lời nào nói đến,thế là không biết xử trí thế chăng? Hoặc không rõ sự thế mà thế chăng? Người trong cả nước tôi lâu ngày bị dãi dầu khổ vì đánh dẹp, bỏ nghề chăn tằm, làm ruộng, không được sinh đẻ, mọi người đều nghiến răng, giơ cánh tay, đều muốn liều chết, quyết đánh một trận, thế không thể nào hoãn được.

Nhưng, ta vẫn nghĩ đến nhân dân sinh sống trong một thành, không nỡ để cho người không có tội mà phải giết chết. Dù có muốn là cho hả cơn giận trong chốc lát, nhưng đối với lòng người, lẽ trời thực chưa yên tâm. Nay ông một mình giữ thành trơ troi, đã trải bao năm tháng, mà quân cứu viện lại không đến được. Muốn đánh thì không đánh nổi, muốn giữ thì không giữ vững, lại câu nệ về ý riêng của mình, xua mạng người vào trong đám giáo mác, ta sợ rằng lòng hiếu sinh của thượng đế, tất không để cho làm thế đâu.

Nếu ông lại theo lời bàn trước, lấy việc giảng hòa làm quý, thì việc mà ông xử trí ở bên ngoài, ai dám bảo là không phải, mà người của Trung-quốc cũng được khỏi khổ về đánh dẹp, nhân dân của nước tôi cũng may mà thót mình khỏi chỗ nước sôi lửa bỏng. Có thể Nam, Bắc từ đây không có việc gì, há chẳng hay lắm sao. Cớ gì hàng ngày lấy giáo mác cùng đánh nhau chuyên việc giết chết lẫn nhau. Nhẫn lòng làm cho con người ta phải bồ côi cha, vợ người ta phải góa chồng, lòng của người nhân đức, có ai chịu làm như thế không?

Thư này gửi đến, kính xin trả lời cho biết.

(1) Căn cứ vào nội dung bức thư, nhất là câu “nay ông một người giữ thành trơ trọi, đã trải bao năm tháng, mà quân cứu viện lại không đến được”, thì có thể đoán định thư này gửi cho Vương Thông vào khoảng thời gian trước khi viện binh của địch kéo sang, nghĩa là trước tháng 9 năm Đinh mùi (1427).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét