Nguyễn Trãi

Phần Quân trung từ mệnh tập

( Phần 1 )
QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP là quyển thứ tư của Ức-trai di tập. Theo Ức-trai di tập, thì Quân trung từ mệnh tập có tất cả 42 bài, vừa là thư từ viết cho bọn tướng lĩnh quân Minh hoặc cho bọn ngụy quân, vừa là biểu cầu phong hoặc bài dụ gửi tướng sĩ ta ở Thanh-hóa, Nghệ-an để khen thưởng vì có công đánh giặc.
Trong Quân trung từ mệnh tập do Nhà xuất bản Sử học xuất bản năm 1961, các ông Phan Duy Tiếp và Đinh Gia Khánh xếp 4 bài:
─ Lệnh gửi các tướng hiệu quân nhân ở Nghệ-an, Tân-bình, Thuận-hóa.
─ Thư gửi Vương Thông.
─ Chiếu khuyến dụ hào kiệt.
─ Tờ tâu về việc tìm con cháu họ Trần vào Quân trung từ mệnh tập.

Trong NGUYỄN TRÃI TOÀN TẬP này, chúng tôi cũng theo trật tự ấy mà sắp xếp phần Quân trung từ mệnh tập.

Trong thời gian gần dây, ông Trần Văn Giáp phát hiện thêm 30 bài văn của Nguyễn Trãi gồm những thư gửi cho tướng tá và quan lại nhà Minh, một bài biểu gửi vua Minh và một bài văn hội thề. Những bài này tìm thấy trong các sách Hoàng Lê hoàng các di văn, Ức-trai di tập bản chép tay năm 1856 và Hoàng triều dữ Minh nhân vãng phục thư tập của Thư viện Khoa học xã hội. Sau khi đã nghiên cứu, xác minh, ông Trần Văn Giáp tập hợp những bài văn đó, biên tập thành Ức-trai quân trung từ mệnh tập bổ biên.

Trong số 30 bài mới phát hiện có 7 bài gần như trùng nhau, chỉ khác đôi câu, đôi chữ. Những chỗ khác nhau đó có lẽ là do sao chép, chứ không phải xuất phát từ những bài văn khác nhau. Như vậy, tập bổ biên thực ra có 23 bài. Những văn kiện mới tìm thấy đã đưa số bài trong Quân trung từ mệnh tập từ 46 bài lên 69 bài. Hơn nữa, nội dung của những bài văn mới phát hiện còn bổ sung, soi sáng thêm nhiều vấn đề quan trọng về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi ─ Nguyễn Trãi lãnh đạo, đặc biệt là về tư tưởng chiến lược, chiến thuật của Nguyễn Trãi.

Chúng tôi đã đưa 23 bài văn mới tìm thấy vào phần Quân Trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi toàn tập xuất bản lần thứ nhất năm 1969. Lần xuất bản thứ hai này, chúng tôi có sắp xếp lại thứ tự các bài đó theo trình tự thời gian.

Khi xuất bản năm 1961, Quân trung từ mệnh tập đã được Viện Sử học hiệu đính. Lần này, đưa phần Quân trung từ mệnh tập vào NGUYỄN TRÃI TOÀN TẬP, chúng tôi lại đem bản dịch Quân trung từ mệnh tập của ông Phan Duy Tiếp và bản dịch Những văn kiện mới tìm thấy của ông Trần Văn Giáp hiệu đính một lần thứ hai nữa; phần chú thích cũng được ông Phan Huy Lê chỉnh lý và bổ sung.

(Xét thiên “Nghệ văn chí” sách Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn nói: tập Quân trung từ mệnh do Nguyễn Trải thảo là những thư từ đi lại với các tướng Bắc triều và ba bài giới dụ tướng sĩ khoảng niên hiệu Hồng-đức Trần Khắc Kiệm biên chép lại theo thứ tự.

Lại sách Lam-sơn ký nói: Nhà vua từ lúc binh Ngô đến lúc phục quốc, phàm bao nhiêu văn thư đị lại ở quân trung, đều sai văn thần là Nguyễn Trãi làm cả).(*)

1. THƯ XIN HÀNG(1)
(Còn gọi là thư tố oan)
(Năm Qúy mão (1423) ngày 6 tháng 5(1), sai Lê Vận, Lê Trăn mang năm đôi ngà voi cùng thư (đi cầu hòa). Sử kí chép: “Năm Nhân dần (1422), vua về núi Chí-linh(3), hai tháng hết lương, chỉ ăn rau củ và măng tre mà thôi. Bấy giơ quân sĩ mỏi mệt muốn được nghỉ ngơi, khuyên vua hòa với giặc, vua bèn cùng bọn Sơn Thọ, Mã Kỳ giảng hòa”).

Tôi nghe nói: “Sinh đời thái bình, ai chẳng được ở yên; gặp đời thánh minh, ai chẳng được thỏa sống”. Nay tôi sinh đời bình, gặp thời thịnh, mà lại thường phải than là mất chỗ ở yên là cớ làm sao? Trước vì tri huyện Đỗ Phú(4) là người đồng hương, cùng tôi có hiềm khích, nó đút lót tham chính lương Nhữ Hốt(5), nói vu cho tôi khinh mạn quan trên, cậy mạnh mà chống lại mệnh trên, nếu không trị trước, tất có lo sau. Nhữ Hốt báo với quan quản binh cùng nội quan Mã Kỳ(6) nhân đó cho quan quân đến đánh úp bộ chúng tôi, không kể trẻ già, đều bị chém giết bắt bớ; họ hàng tôi đều tan tác, vợ con tôi đều chia lìa. Lại khai quật mồ mả tổ phụ tôi phởi bày hài cốt (sách Lam-sơn kí chép: Năm Mậu tuất (1418) vua khởi binh ở Lam-sơn, bọn Mã Kỳ nhà Minh đến bức, nhà vua lui về đóng đồn ở Lạc-thủy, Đỗ Phú đưa bọn giặc đến đào hài cốt của đức Hoàng khảo ở xứ Phật-hoàng; lại đi lén theo đường tắt để đánh úp phía sau nhà vua, bắt gia thuộc nhà vua cùng vợ con của quân dân rất nhiều). Tôi không biết kêu đâu, tiến thoái đều khó, bèn sai thân nhân đến Tam ty(7) tạ tội, thì hai ba lần sứ đi đều bị giết, không ai được về. Tôi không biết tính sao, đành phải chạy đi núp náu cho qua năm tháng, để đợi quan trên xét soi. Sống tạm nơi rừng núi đã sáu năm trời, ngày cơm hai bữa, chưa từng có bữa nào no. Song chim tinh vệ(8) lấp biển, há quản gian lao; kẻ oan ức trả thù, cũng liều sống thác; nên tôi đem bộ chúng đến vây quê nhà Đỗ Phú, bắt họ hàng làng xóm nó để hả lòng căm giận mà thôi, đâu dám có chí khác. Nay nghe quan tổng binh(9) là bực đức lớn ân rộng, tâm như Đặng Vũ(10) dụ địch, chính như Hoàng Bá(11) dạy dân, thực là dịp cho tôi được đổi lỗi sửa mình. Vậy xin kính sai bọn anh họ là Lê Vận(12) dâng thư đến viên môn(13), giãi bày oan khổ, cúi xin đại nhân tha cho lỗi đã qua, mở cho đường đổi mới. Nếu được rủ lòng khoan thứ, thật là ơn tạo hóa của trời đất vậy.

(*) Những đoạn chữ nhỏ đặt trong ngoặc đơn là lời chú trong Ức-trai di tập do Dương Bá Cang biên tập.

(1) Cuộc khởi nghĩa Lam-sơn do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo bắt đầu dấy lên từ một ngày đầu xuân năm 1418. Lực lượng nghĩa quân lúc đó không quá 2.000 người. Từ năm 1418 đến năm 1423, nghĩa quân hoạt động ở miền núi rừng Thanh-hóa trong những điều kiện hết sức gian khổ, ác liệt. Bằng lối đánh du kích lợi hại, nghĩa quân đã đánh lui nhiều cuộc vây quét lớn của quân Minh, bảo toàn và phát triển lực lượng, mở rộng dần khu căn cứ. Nhưng cuộc khởi nghĩa cũng gặp nhiều khó khăn. Nghĩa quân nhiều lần bị tổn thất nặng nề, bị thiếu lương thực và ba lần bị bao vây ở núi Chí-linh.

Trước tình hình đó, đầu năm 1423, Lê Lợi - Nguyễn Trãi chủ trương tạm hòa hoãn với địch để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị cơ sở cho cuộc chiến đấu lâu dài. Bức thư này, mở đầu cho việc thương lượng đình chiến nhằm mục đích - như Nguyễn Trãi đã nói rõ trong bài phú Núi Chí-linh - “bên ngoài giả thác hoàn thân” để “bên trong lò rèn chiến cụ”, “quyên tiền, mộ lính”… Trong hoàn cảnh và so sánh lực lượng lúc bấy giờ, công việc thương lượng với địch phải thực hiện một cách mềm mỏng, khôn khéo dưới hình thức trá hàng. Vì vậy, bức thư này gọi là “Thư xin hàng”. Trong thư, Nguyễn Trãi nêu rõ tội ác của quân địch và nỗi oan khổ của nhân dân, nên người ta còn gọi là “Thư tố oan”.
(2) Không rõ lời tiểu dẫn căn cứ vào đâu cho rằng bức thư này gửi ngày 6 tháng 5 năm Quý mão (tức ngày 13-6-1423). Trong Toàn thư (q.10, t.10a), Cương mục (1.13, t.16b)., Lam-sơn thực lục, Đại Việt thông sử, thì tháng 4 năm đó (10-5 đến 7-6-1423), công việc thương lượng đình chiến đã đạt kết quả và ngày 14 (ngày 23-5-1423) Lê Lợi cùng với nghĩa quân trở về Lam Sơn. Cũng theo chính sử của ta, tháng 12 năm trước (năm Nhân dần), Lê Lợi rút quân về núi Chí-linh và đóng ở đó trên hai tháng trong tình trạng thiếu lương thực rồi mới tạm hòa với quân Minh. Theo Hoàng Minh thực lục thì Lê Lợi rút quân về Chí-linh vào tháng giêng năm Quý mão. Vậy việc thương lượng đình chiến với quân Minh phải thực hiện vào khoảng cuối tháng 3 (tháng 3 tính ra dương lịch là từ ngày 11-4 đến 9-5-1423) hay đầu tháng 4 (tháng 4 tính ra dương lịch là từ ngày 10-5 đến 7-6-1423) năm Quý mão, nghĩa là vào khoảng tháng 5 năm 1423.
(3) Cương mục (1.13, t.3a) chú thích : “Núi Chí-linh: ở địa phận mường Giao-lão, nay thuộc đất phủ Trấn-định, Nghệ-an”. Phủ Trấn-định đời Nguyễn là châu Ngọc-ma thuộc phủ Nghệ-an thời thuộc Minh, nay là miền thượng lưu sông Ngàn-phố, Ngàn-sâu về phía tây. Vị trí núi Chí-linh xác định như vậy không phù hợp với phạm vi hoạt động của nghãi quân Lam-sơn lúc bấy giờ giớ hạn ở miền núi rừng Thanh-hóa, chưa lan vào đến miền thương dụ Nghệ-an, Hà-tĩnh.
Đại-nam nhất thống chí (1.6) căn cứ vào Lam-sơn thực lục chép núi Chí-linh ở địa phương mường Giao-lão và xác định “Giao-lão nay thuộc Lang-chánh”.
Mường Giao-lão nay là xã Giao-an huyện Lang-chánh, giáp huyện Thường-xuân, Tỉnh Thanh-hóa. Trên bản đồ hiện nay, vùng này có một đầu núi lớn mang tên là Pù Rinh gồm nhiều ngọn núi ở độ cao trên dưới 1.000m, chiếm một khu vực khá rộng giữa hai huyện Lang-chánh và Thường-xuân. Núi Chí-linh hay Linh-sơn trong Bình Ngô đại cáo chính là núi Pù Rinh (Pù hay Bù tiếng Thái nghĩa là núi, Pù Rinh tức núi Rinh, biến âm của núi Linh hay Linh-sơn) thuộc xã Giao-an. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thực địa để xác định cụ thể hơn ngọn núi Pù Rinh nào là núi Chí-linh mà nghĩa quân Lam-sơn sử dụng làm căn cứ chống quân Minh và nhà thơ Nguyễn Mông Tuân đã từng mô tả trong bài phú Núi Chí-linh.
(4) Đỗ Phú người Hào-lương ở gần Lam-sơn, là một tay sai đắc lực của quân Minh. Hắn giữ chức tri huyện, đã dẫn đường đưa quân Minh theo lối tắt đánh lên đánh úp nghĩa quân, lùng bắt gia thuộc của Lê Lợi và của nhiều nghĩa quân, quật mồ mả tổ tiên của Lê Lợi.

(5) Lương Nhữ Hốt người xã Trào-vịnh, huyện Cổ-đằng (sau đổi tên là xã Hội-triều, nay thuộc huyện Hoằng-hóa), là một ngụy quan cao cấp của quân Minh. Hắn trước làm tri phủ Thanh-hóa rồi thăng lên chức tham chính ty bố chính. Chính hắn đã dò la tình hình chuẩn bị khởi nghĩa của Lê Lợi và mật báo cho quân Minh lên đàn áp.

(6) Mã Kỳ là một hoạn quan của nhà minh, khét tiếng tham tàn, bạo ngược. Hắn đã từng giữ chức thái biện sứ chuyên đốc thúc cống phú, vơ vét tài nguyên của cải nước ta. Hắn còn là một võ quan chỉ huy quân Minh ở Thanh-hóa, trực tiếp đàn áp nghĩa quân Lam-sơn.

(7) Tam ty là cơ quan đứng đầu chính quyền đô hộ của nhà Minh ở nước ta, gồm: ty Thừa tuyên bố chính sứ (gọi tắt là ty Bố chính) coi về dân chính và tài chính, ty Đô chỉ huy sứ (gọi tắt là ty Đô) quản lính và chỉ huy quân lính, ty Đề hình án sát sứ (gọi tắt là ty Án Sát) nắm quyền tư phát và kiểm sát).

(8) Tinh vệ là một loài chim ở bờ biển. Tương truyền rằng: con vua Viêm-đế ngày xưa bị chết đuổi ở bờ biển hóa thành chim tinh vệ hay còn gọi là “chim oan” (oan cầm). Chim ấy cứ cắp gỗ đá ở núi Tây về lấp biển. Vì vậy, “chim tinh vệ lấp biển” có ý nghĩa ví với người bị oan ức, quyết tâm trả thù.

(9) Tổng binh là một chức võ quan cao cấp của nhà Minh. Tất cả quân Minh ở nước ta đặt dưới quyền chỉ huy của một tổng binh. Tháng 2 năm Nhâm thìn (1422), tổng binh Lý Bân chết, nhà minh cử tham tướng Trần Trí lên thay làm tổng binh.

(10) Đặng Vũ: Thời Hậu hán, quân nông dân khởi nghĩa Xích-mi vào cửa quan, định đánh phá Trường-an, bọn Vương Khuông chống cự không nổi. Vua Quang-Vũ lấy Đặng Vũ làm tiền tướng quân đi đánh Xích-mi. Đặng Vũ hết sức dụ dỗ, chiêu hàng được một số nghĩa quân.

(11) Hoàng Bá giữ chức thái thú đời Hán được coi là người khoan hòa, nhân chính.
(12) Lê Vận vốn họ Trần là anh vợ của Lê Lợi. Theo Toàn thư (1.10, tờ 10a) thì Lê Lợi phái Lê Vận và Lê Trăn mang thư đi giảng hòa.
(13) Viên môn là cổng ngoài nơi đóng quân.


2. THƯ CHO TỔNG BINH CÙNG QUAN
PHỦ VỆ THANH-HÓA(1)
Phàm vật hễ mất cân bằng thì kêu, cho nên làm cho người ta phải chịu oan khốc là bởi thiện ác không rõ ràng, thực dối không phân biệt. Nay các quan trấn thủ phủ vệ vâng mệnh Triều đình(2), chăn nuôi dân chúng, ví như cha mẹ nuôi con, ai cũng hết lòng thương yêu. Nay tôi mang tội vô cô(3), ngậm tình oan khổ, đã không được lượng trên thương xét, lại còn đem quân đến đánh, khiến nhân dân một phương không được ở yên, đó tuy là tội của tôi, nhưng cũng do quan trên vỗ yêu không phải đạo vậy. Vả lại ghét chết thích sống, tránh nhọc tìm nhàn là thường tình người ta. Nay tôi lìa quê hương mà trốn tránh, bỏ vườn ruộng mà không nhìn, kể nông nỗi ấy, thực đáng xót thương! Thế mà Triều đình to lớn, thú mục hiền hành, sao nỡ để tôi phải đến thế? Nay tôi chỉ trời xin thề, cùng chúng định ước, đem lòng thành tín mà quy hàng, xin đấng quân phụ cho tái tạo. May ra nỗi oan được rõ, lỗi trước được tha, cho tôi được hết lòng trung mà phụ sự Triều đình, đó thực là điều tôi sở nguyện vậy. Ngày xưa Kê Khang(4) vô tội mà sau hết trung với Tấn, Quan Vũ khỏi chết(5) mà sau trả nghĩa cho Tào; tôi dẫu kém cỏi, dám đâu quên nghĩa ấy, xin hoặc cho đi đánh Bắc để lập công, hoặc cho theo dẹp Tây để chuộc tội, dù chết cũng không từ. Cuối xin soi xét tấc thành, khoan tha tội lỗi, thực may cho tôi lắm.

(1) Đây là bức thư Lê Lợi gửi cho viên tổng binh quân Minh lúc đó là Trần Trí và các viên phủ, vệ của địch ở Thanh-hóa trong thời gian hòa hoãn. Sau khi chiếm được nước ta, nhà Minh đặt làm quận Giao-chỉ và chia lại các phủ, châu, huyện. Theo tổ chức hành chính đó, Thanh-hóa đổi làm phủ do chức tri phủ đứng đầu. Số quân Minh đóng giữ thường xuyên ở Thanh-hóa có 1 vệ và 5 thiên hộ sở. Theo binh chế của nhà Minh, mỗi vệ có 5.600 quân, mỗi thiện hộ sở có 1.120 người.
(2) Tức là triều đình nhà Minh

(3) Vô cô : vô tội, tức là oan ức.

(4) Kê Khang (có lẽ là Kê Thiêu con Kê Khang). Tấn Vũ đế với Kê Thiệu cho làm Bí thư lang. Sau Triệu Vương Luân cướp ngôi vua, cho Thiệu làm Thị trung. Đến lúc Huệ đế lại về làm vua, Thiệu vẫn giữ chức ấy. Khoảng niên hiệu Vĩnh-hưng, bọn Hà gian vương khởi binh, Thiệu theo vua đi đánh ở Đãng-âm, thị vệ tan chạy, duy Thiệu lấy thân che đỡ cho vua, không may bị hại ở cạnh vua, máu bắn vào áo vau. Khi việc đã yên, tả hữu muốn giặt áo vua, vua bảo rằng: “Đây là máu trung của Kê Thị trung, đừng giặt”.

(5) Quan Vũ: Thời Tam quốc, Quan Vũ theo Lưu Bị,, khi giữ Hạ-bì, bị Tào Tháo bắt được, tháo đối đãi rất hậu cho làm thiên tướng quân. Sau Viên Thiệu đánh Tháo, Vũ chém dũng tướng của Thiệu là Nhan Lương để báo ơn Tháo rồi chạy về với Lưu Bị. Sau Tháo bị thua trận Xích-bích chạy đến Hoa-dung, gặp Vũ chặn đón ở đấy, Tháo bảo Vũ rằng việc Vũ qua năm cửa quan chém sáu tướng của Tào để đi thoát thì chưa thấy báo. Vũ bèn quay ngựa về, Tháo chạy được thoát.
 
3. THƯ CỦA THÁI GIÁM SƠN THỌ(1)
Kể đạo trong thiên hạ, trong không gì bằng trung nghĩa, quý không gì bằng danh tiết. Ghét chết thích sống, tránh nhục tìm vinh, đó là thường tình của người ta. Tôi từ sinh ra, thích danh tiết mà trọng trung nghĩa, ghét kẻ tiểu nhân mà dấn mình hoạn nạn, tuy ở trong cảnh gian nan nguy hiểm, mà không nhụt chí bình sinh. Ngày đêm than thở, trông vào hai trời(1) mà kêu van. Nay nghe ngài mới ở Kinh sang, đã xét rõ duyên có mang tội, chỉ bảo con đường sống còn, bộ chúng của tôi nghe ngóng, già trẻ vui mừng không xiết. Cúi xin đem dân cả sách làm gia nô để khỏi bị huyện quan làm khổ. Vả cổ nhân có nói: “Lấy thù trả thù, tai vạ không thôi!”. Nay Đỗ Phú vốn có cừu thù với tôi, lại làm quan ở huyện tôi, vì thế mà tôi phải ly tán đào vong vậy. Nay ngài đức kịp côn trùng, ân khắp thảo mộc, thu nạp những thứ nhơ nhớp, chiêu dụ những kẻ bạn vong, có thể cho tôi được sửa lỗi tự tân, rửa lòng đổi dạ, để làm dân đời thái bình, chính như chết mà sống lại, xương mà sinh thịt vậy.

(1) Sơn Thọ là một hoạn quan của nhà Minh, cùng với tổng binh Trần Trí, lợi dụng việc hòa hoãn của nghĩa quân, tìm cách dụ dỗ, mau chuộc Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh nghĩa quân. Tháng 8 năm 1424, vua Minh Thành-tổ chết, Minh Nhân-tông lên nối ngôi. Nhân lúc Sơn Thọ về triều, vua Minh cử Sơn Thọ mang sắc sang phong Lê Lợi làm tri phủ Thanh-hóa, âm mưu dùng chức tước để lung lạc và ràng buộc người thủ lĩnh của nghĩa quân Lam Sơn. Trong thư này có câu: Nay nghe Ngài mới ở Kinh sang…”. Bức thư gửi cho Sơn Thọ khi hắn vừa mới từ kinh đô nhà Minh sang, có thể vào khoảng tháng 9 hay đầu tháng 10 năm 1424.
(2) Hai Trời: Thời Hậu Hán, Tô Chương làm thứ sử châu Ký, có cố nhân làm thái thú. Chương đi xét việc gian tang của thái thú, cùng thái thú uống rượu kể chuyện lúc bình sinh, rất vui vẻ. Thái thú mừng nói rằng: “Người ta ai cũng chỉ có một trời, duy tôi thì có hai trời”. Hai trời nghĩa là trời và người có ơn với mình như trời vậy. Ở đây muốn lấy lòng Sơn Thọ coi y như bậc tri kỷ.
 
4. THƯ CHO PHƯƠNG CHÍNH(2)
Tôi trộm nghĩ cái nỏ nặng nghìn cân không vì con chuột nhắt mà nẩy máy. Nay ngài là bực danh tướng hiện thời, lại đem quân hai nước(2) mà tranh thắng với kẻ thất phu, có được chăng nữa, chẳng qua cũng chỉ phong hầu; vạn nhất ngã thua, thì bốn phương nhân thế mà chinh chiến không thôi, dẫu người cơ trí mà không giỏi lo tính về sau, hối làm sao kịp? Chỉ e mua cười với đương thế, để chê cho đời sau, tôi rất vì người lo ngại. Vì ngài tính kế ngay nay, không gì bằng cởi giáp nghỉ binh, ngồi nhàn mà nhận hàng, đó là thượng sách. Thế tuy là may cho bọn tôi cùng ngài, mà cũng là may lớn cho vạn dân thiên hạ vậy.

(1) Phương Chính giữ chức đô đốc, đã nhiều lần chỉ huy quân Minh đàn áp cuộc khởi nghĩa Lam-sơn. Trong thời gian đình chiến, ngoài những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, quân Minh còn đe dọa, gây áp lực quân sự đối với nghĩa quân. Cuối năm 1423, tổng binh Trần Trí bắt giữ Lê Trăn là sứ giả của Lê Lợi. Mùa thu năm 1424, Trần Trí tâu về triều đình nhà Minh rằng Lê Lợi không chịu hàng phục và xin cho tiến quân lên đàn áp, nhưng vua Minh vẫn tiếp tục tìm cách chiêu dụ. Từ đó, quân hệ giao thiệp giữa Lê Lợi và quân Minh trở nên căng thẳng. Đặc biệt, Phương Chính là viên tướng mà Minh sử (q. 321, An-nam truyện) cũng nhận định là “dũng cảm nhưng ít mưu lược”, càng muốn dùng vũ lực để tiêu diệt lực lượng nghĩa quân. Đây là thư Lê Lợi gửi cho Phương Chính và cũng là bức thư cuối cùng trong thời gian hòa hoãn.

(2) Quân hai nước ở đây là quân Minh người Trung-quốc và ngụy binh người nước ta do nhà Minh tổ chức để đàn áp nghĩa binh.
 
5. THƯ TRẢ LỜI PHƯƠNG CHÍNH(1)
(Minh lại tiến quân không thôi, lại có thư dụ mà kể tội, cho nên có thư này đáp lại).
Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính: Kể đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương, việc ấy trời đất không dung, người mà đều giận, cho nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua. Thế mà không biết trước tự cải quá, lại còn bới bẩn cho thêm thối, hối sao cho kịp được! Huống chi bây giờ nước mùa xuân mới sinh, lam chướng bốc độc, thế không thể chịu lâu được. Nay mày chỉ nám đại binh mà nấn ná không tiến, khiến quân lính nhiễm lam chướng dịch lệ mà chết, đó là tội ai? Binh pháp có nói; “Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều”. Nay mày muốn đánh, thì nên tiến quân giao chiến, để quyết sống mái, đừng làm khổ cho quân sĩ hai nước làm gì.

(1) Ngày 20 tháng 9 năm Giáp thìn (ngày 12-10-1424) nghĩa quân Lam-sơn bất ngờ tập kích đồn Đa-căng (Thọ-xuân, Thanh Hóa) rồi theo kế hoạch của Nguyễn Chích, tiến quân vào Nghệ-an xây dựng căn cứ mới, tiếp tục cuộc đấu tranh vũ trang đến thắng lợi cuối cùng. Sau khi đánh bại các toán quân Minh đuổi theo phía sau và chặn đường phía trước, nghĩa quân tiến vào vây hãm và hạ thành Trà-lân (Nghệ-an). Quân Minh và các tướng Phương Chính, Trần Trí, Sơn Thọ tập trung về Nghệ-an để ngăn chặn và tiêu diệt nghĩa quân, nhưng chúng dùng dằng không dám tiến quân. Bức tư này gửi cho Phương Chính vào khoảng mùa xuân năm 1425, vừa kể tội ác quân giặc, vừa khiêu khích dử chúng lên miền núi Nghệ-an để tiêu diệt.
 
6. LẠI THƯ TRẢ LỜI PHƯƠNG CHÍNH(1)
(Giặc xem thư trước, mắng lại rằng: “Mày nếu muốn đánh nhau thì hãy ra chỗ đồng bằng đất phẳng”. Vì thế có thư đáp lại).

Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính: Kể người dùng binh giỏi thì không có đâu là hiểm, đâu là không hiểm, không có đâu là dễ, đâu là không dễ. Thắng hay phụ ở tướng, chứ không ở đất hiểm hay dễ. Vào chỗ hiểm mà dánh nhau không khác gì hai con hổ đánh nhau ở trong thung lũng, giỏi thì được, vụng thì thua. Bởi vậy, đất không có bình thưởng nhất định, trận không có thế thưởng nhất định. Mày nếu không lui, thì phải đem binh ra mà quyết chiến thôi.

(1) Bức thư này cũng gửi vào khoảng đầu năm 1425 để trả lời thư Phương Chính thách thức nghĩa quân “ra chỗ đồng bằng đất phẳng” đánh nhau và tiếp tục khiêu chiến, dử chúng lên miền núi để tiêu diệt theo lối đánh mai phục sở trường của nghĩa quân Lam-sơn.
 
7. LẠI THƯ CHO PHƯƠNG CHÍNH(3)
(Tháng 5 năm Bính ngọ (1426)(2), quân ta đến thành Nghệ-an, giặc không ra đánh, ta mới viết thư cho).

Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính: Ta nghe nói người danh tướng trọng nhân nghĩa, khinh quyền mưu. Bọn mày gửi thư cho ta, cứ cười ta núp náu ở nơi rừng núi, thập thò như chuột, không dám ra nơi đồng bằng đất phẳng để đánh nhau. Nay ta đã đến đây, ngoài thành Nghệ-an đó đều là chiến trường cả, mày cho đấy là rừng núi chăng? Là đồng bằng chăng? Thế mà mày cứ đóng thành bền giữ như mụ già là làm sao? Ta e bọn mày không khỏi cái nhục khăn yếm vậy(3).

(1) Tháng 2 năm 1425, nghĩa quân bắt đầu vây hãm thành Nghệ-an. Đây là một thành lũy kiên cố do quân Minh xây dựng trên núi Lam-thành (nhân dân thường gọi là Rú Thành) nay thuộc xã Nghĩa-liệt, huyện Hưng nguyên, tỉnh Nghệ-an. Tháng 5, quân địch được tăng viện, mở một cuộc phản kích nhưng bị thất bại. Từ đó, quân Minh ở thành Nghệ-an do Lý An, Phương Chính chỉ huy, phải đắp thêm lũy và đóng chặt cửa thành lo cố thủ. Bằng bức thư này, Nguyễn Trãi khiêu khích nhằm dử địch ra khỏi thành lũy để giao chiến ngay ở vùng đồng bằng.
(2) Theo Lam-sơn thực lục (q. 2), Toàn thư (q. 10), Cương mục (1. 13)… thì từ tháng giêng năm Ất tị (1425), nghĩa quân Lam-sơn đã tiến xuống bao vây thày Nghệ-an. Lời tiểu dẫn này có chỗ không chính xác. Phương Chính cùng với Lý An cố thủ ở thành Nghệ-an từ đó cho đến ngày 19 tháng 7 năm Bính ngọ (ngày 21-8-1426) thì rút về Đông-quan. Thư số 7 và số 8 gửi cho Phương Chính trong khoảng thời gian đó.

(3) Khăn yếm: dịch chữ “cân quắc”. Cân quắc là đồ trang sức ở đầu của đàn bà. Xưa Gia-Cát Lượng đi đánh Ngụy, đem quân đến đồng bằng phía nam sông Vị-thủy, khiên chiến mãi, Tư-Mã Ý không dám ra đánh. Lượng sai đưa cho Ý những khăn của đàn bà để làm nhục (Tấn thư).

8. LẠI THƯ TRẢ LỜI PHƯƠNG CHÍNH
(Phương Chính gửi thư cho ta, cho nên có thư đáp lại)

Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải dấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ nhân nghĩa có gồm đủ thì công việc mới xong xuôi. Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng điếu dân phạt tội(1), kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được sống yên. Ngân nghĩa mà lại thế ư? Nay ở nước mày, dân oán thần giận, kế tiếp đại tang(2), thế mà đã không biết tự xét lỗi mình, lại còn cùng binh độc vũ(3), cam lòng xâm lược phương xa, khiến cho sĩ tốt phơi thây, nhân dân lầm bụi. Ta e mối lo của họ Quý không phải ở nước Chuyên-du, mà ở trong tiêu tường(4) vậy.

(1) Điếu dân phạt tội nghĩa là thương dân sống khổ mà đánh kẻ có tội để cứu dân. Nhà Minh giả danh đánh kẻ thoán nghịch là họ Hộ (cha con Hồ Quý Ly), phù lập hộ Trần, mà đem quân sang chiếm nước ta

(2) Đại tang, theo tục là chỉ tang cha mẹ, nhưng lời chú ở sách Chu lễ thì đại tang là tang nhà vua, hoàng hậu và thế tử. “Kế tiếp đại tang” ở đây là nói tang vu Minh; tháng 8 năm 1424 Minh Thành-tổ chết, thái tử là Cao Xý lên nối ngôi tức vua Minh Nhân-tông; tháng 7 năm 1425 Minh Nhân-tông lại chết, thái tử là Chiêm Cơ lên nối ngôi tức vua Minh Tuyên-tông.

(3) Cùng binh độc vũ: sính dùng vũ lục, đánh nhau không thôi.

(4) Tiêu tường: tiêu là nghiêm kính, tường là cái bình phong xây ở bên trong cổng. Theo lễ xưa, vua tôi tiếp kiến nhau, đến chỗ bình phòng thì càng nghiêm kính, vì thế mới gọi là tiêu tường. Thường dùng tiêu tường chỉ bên trong. Sách Luận ngữ, Khổng tử có nói: “Ngô khủng Quý tôn chi ưu, bất tại Chuên du, nhi tại tiêu tường chi nội dã” (Ta e mối lo của họ Quý tôn không ở nước Chuyên-du, mà ở nơi tiêu tường vậy). Ý nói mối lo không ở bên ngoài mà lại ở bên trong.
 
9. THƯ TRẢ LỜI BỌN TỔNG BINH
VƯƠNG THÔNG THÁI GIÁM SƠN THỌ(1)
(Tháng 12(2), quân ta phá thành Đông-quan(3). Thông cùng Thọ sai Nguyễn Nhậm đem thư sang ta xin hòa. Vì thế có thư trả lời).

Tôi nghe, trời đất đối với muôn vật, nổi sấm sét mà ý hiếu sinh vẫn có ở trong; cha mẹ đối với các con, đánh roi vọt mà ơn cức dục vẫn có ở đây. Nay vâng được thư của ngài cho tôi được tự tân, hân hạnh khôn xiết, thật không khác đức lớn của trời đất cha mẹ, dẫu có tan xương, nát thịt, cũng không đủ báo đền. Song nếu ngài thực có lòng thương xót dân chúng, thì nên sai đầu mục đến các thành Diễn-châu, Nghệ-an, Tân-bình(4), ra lệnh cho họ đem quân về. Tôi sẽ lập tức sắm đủ phương vật tiến công, cúi xin ngài sai quan cùng đi với tử đệ thân tín của tôi để đến đầu hàng phục tội. Cầu cống đường sá thì tôi xin nhận sửa đắp, không phải phiền đến quan quân. Giá được người nhận lời, không những sinh linh nước tôi được khỏi lầm than, mà binh sĩ Trung-quốc cũng khỏi nỗi khổ gươm giáo vậy.

(1) Sau hơn một năm tiếp tục cuộc đấu tranh vũ trang, đến cuối năm 1425, nghĩa quân Lam-sơn đã gp được đất từ Thanh-hóa trở vào, trừ một số thành lũy đang bị bao vây. Tháng 9 năm 1426, nghãi quân bắt đầu mở cuộc tiến công ra miền Bắc, đưa cuộc khởi nghĩa phát triển lên thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô cả nước. Nhà Minh phải phái Thành-sơn hầu Vương Thông làm tổng binh đem 5 vạn quân sang cứu viện, Phương Chính, Lý An cũng vội giao thành Nghệ-an lại cho Thái Phúc cố thủ rồi đem đại bộ phận quân lính về giữ Đông-quan. Cuối tháng 10 năm 1426, quân Minh tập trung về Đông-quan đến trên 10 vạn quân. Đầu tháng 11, Vương Thông mở một cuộc phản công lớn nhưng bị thất bại, bằng chiến thắng Tốt-đông - Chúc-động, nghĩa quân đã đập tan cuộc phản công của địch, tiêu diệt trên 6 vạn quân và thừa thắng, vây hãm thành Đông-quan. Trong tình thế nguy ngập đó, tổng binh Vương Thông và thái giám Sơn Thọ phải viết thư xin giảng hòa. Đây là thư trả lời của Lê Lợi.

(3) Đây là tháng 12 năm Bính-ngọ (1426). Ngày 23 tháng 10 năm đó (ngày 22-11-1426), quân ta bắt đầu tiến công vây hãm thành Đông-quan, tiêu diệt các doanh trại ngoại vi của địch. Tháng 12 năm đó, quân ta càng xiết chặt vòng vây và tiến công dồn dập thành Đông-quan.

(3) Thành Đông-quan tức là thành Thăng-long (Hà-nội). Thành này đời Hồ gọi là Đông-đô và nhà Minh, sau khi chiếm nước ta, đổi tên là thành Đông-quan, cũng có khi gọi là thành Giao-châu.

(4) Thành Diễn-châu, Nghệ-an, Tân-bình lúc bấy giờ còn do quân Minh chiếm đóng và đang bị bao vây. thành Diễn-châu (Diễn-châu, Nghệ-an) là trị sở của Diễn-châu tương đương với vùng bắc Nghệ an ngày nay (gồm các huyện Diễn-châu, Yên-thành, Quỳnh-lưu, Quỳ-châu, Nghĩa-đàn). Thành Nghệ-an (Hưng-nguyên, Nghệ-an) là trị sở phủ Nghệ-an tương đương miền Nam Nghệ-an và Hà-tĩnh ngày nay. Thành Tân-bình (Quảng-bình) là trị sở vùng Tân-bình tương đương với vùng Quảng bình và Bắc Quảng-trị ngày nay. Trong bức thư viết không thấy nhắc đến thành Thuận-hóa và Thanh-hóa lúc bấy giờ cũng đang bị bao vây. Ở đây có dụng ý gì của Nguyễn Trãi hay do sao chép thất lạc?
 
10. THƯ GỬI BỌN HOA ĐẠI NHÂN(1)
Gửi Hoa đại nhân cùng các ngài biết: Hiện nay việc giảng hòa đã xong(2), biểu cầu phong cùng sứ nhân sắp qua Mai quan(3) để cùng với các xứ Lưỡng Quảng và Phúc kiến đến mồng 2 tháng giêng sang năm(4) khởi hành về kinh. Duy tổng binh Vương đại nhân và thái giám Sơn đại nhân còn tạm đóng lại, đợi quan quân ở các thành Diễn-châu, Nghệ-an, Thanh-hóa đều đến Đông-quan, rồi cùng đi một thể. Các ngài nên mau chóng thu xếp hành trang, ra đóng ở ngoài thành, để đợi Thái công cùng Hình nội quan, Đả chỉ huy(5) đến đấy thì cùng đi, xin chớ trì hoãn. Hiện nay đường sá cầu cống đã sửa sang, lương thực đều đã biện sẵn, các ngài nếu lại trì hoãn, e Thái công đi rồi, đi một mình sẽ có khó khăn. Bởi vậy báo cho ngài biết, nên sớm đi với Thái công thì hơn.

(1) Hoa đại nhân là một viên tưởng Minh họ Hoa. Theo chính sử và thư số 9, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đặt ra điều kiện giảng hóa là: quân Minh trong các thành phía nam (Thanh-hóa trở vào) phải tập trung về Đông-quan rồi rút hết về nước, nghĩa quân bảo đảm sửa sang cầu đường cho quân địch rút lui và chịu thần phục, triều cống nhà Minh. Trong bức thư này, Nguyễn Trãi có đoạn viết: Vương Thông “đợi quan quân ở các thành Diễn-châu, Nghệ-an, Thanh-hóa đều đến Đông-quan, rồi cùng đi một thể. Các ngài nên mau chóng thu xếp hành trang, ra đóng ở ngoài thành để đợi Thái công cùng Hình nội quan, Đả chỉ huy đến đấy thì cùng đi”. Thái công là Thái Phúc, viên tướng Minh cổ thủ thành Nghệ-an, Hình nội quan và Đả chỉ huy là những tướng Minh ở thành Thanh-hóa. Vậy Hoa đại nhân có lẽ là một viên tướng Minh ở thành Diễn-châu. Trong số các tướng Minh ở nước ta lúc đó, có một người họ Hoa là Hoa Anh. Hoa Anh giữ chức đô chỉ huy, đã từng tham gia cuộc chiến tranh xâm lược nước ta năm 1406-1407, sau đó đóng quân nhiều nơi ở Thanh-hóa. Nếu Hoa đại nhân là Hoa Anh thì viên tướng này mới được cử vào tăng cường cho thành Diễn-châu do Tiết Tụ trấn giữ, vào khoảng cuối năm 1424 đầu năm 1426. Chủ trương của Lê Lợi - Nguyễn Trãi là nhân việc giảng hòa, ra sức dụ hàng các thành, kết hợp bao vây tiến công bằng quân sự với việc vận động, thuyết phục kẻ thù. Tháng 2 năm 1427, quân Minh ở thành Diễn-châu ra hàng.

(2) Để dễ dàng tiến hành việc giảng hòa với nhà Minh cuối năm 1426 Lê Lợi đã lập Trần Cảo, một người tự xưng là con cháu nhà Trần, lên làm vua và xin nhà Minh phong vương cho Trần Cảo.

(3) Mai-quan là một cửa quan ở trên núi Đại-dũ, thuộc tỉnh Giang-tây. Trương Cửu Linh đời Đường mở con đường núi ấy, trên trông nhiều cây mai, nên người ta thường gọi là Mai quan.

(4) Năm Đinh vị (1427).

(5) Thái công tức là Thái Phúc đóng giữ thành Nghệ-an; Hình nội quan, Đả chỉ huy (tức là chỉ huy Đả Trung) là những tướng Minh đóng giữ thành Tây-đô (tức thành Thanh-hóa trong thư).
 
11. THƯ CHO THÁI CÔNG(1)
Thư gửi hiền huynh Thái công. Đệ ngu ở Đông-quan(2), nghe tin hiền huynh ra cửa thành bái yết Trần chúa(3) chúng tôi, đáng mừng lắm lắm. Từ đây giải binh, khiến nước Nam được thoát cái khổ can qua, thật may lắm sao! Có thể gọi là bực quân tử biết thời cơ vậy! Ân tình rất hậu, trăm năm không thể quên được. Nay sai người đem 15 chiếc thuyền đến đón, ngài cùng các quan và quý quyến có thể tùy tiện thu xếp hành trang lên đường. Còn quân nhân thì có thể đi đường bộ được. Hiện nay cầu cống các nơi đã sửa sang, trên đương không gì quản ngại. Xin báo ngài biết.

(1) Thái công là Thái Phúc, viên tướng Minh trấn thủ thành Nghệ-an. Thành này bị bao vây từ tháng 2 năm 1425. Ngày 17-10-1426 (ngày 17 tháng 9 năm Bính ngọ), Phương Chính, Lý An rút quân về thành Đông-quan, giao thành Nghệ-an lại cho Thái Phúc cổ thủ. Tháng 2 năm 1427, Thái Phúc nộp thành cho nghĩa quân xin hàng. Cuộc chiến tranh yêu nước sáng ngời chính nghĩa của dân tộc ta và những bức thư thuyết phục có tình có lý của Nguyễn Trãi đã làm cho Thái Phúc tỉnh ngộ, thấy được tính chất phi nghĩa và sự thất bại tất yếu của quân Minh. Sau khi đầu hàng, ông đã xin đến những thành đang bị vây để chiêu dụ quân Minh, báo cho Lê Lợi biết âm mưu của quân Minh và bày cho nghĩa quân cách chế tạo công cụ đánh thành. Vì vậy, ông được Lê Lợi - Nguyễn Trãi đón tiếp niềm nở và sau khi chết (bị nhà Minh xử tử), được Lê Lợi truy phong tước Tuyên-nghĩa, cho lập đền thờ ở chân núi Lam-thành (gọi là đền Tuyên-nghĩa ở Triều-khẩu, Hưng-nguyên, Nghệ-an). Thư này gửi sau khi Thái Phúc ra hàng vào tháng 2 năm 1427.

(2) Thành Đông-quan tức là thành Thăng-long (Hà Nội). Thực ra lúc bấy giờ thành Đông-quan vẫn do quân Vương Thông đóng giữ. Lê Lợi chưa vào thành được. Ngày 22 tháng 10 năm Bính ngọ (1426), Lê Lợi đóng quân ở Tây Phù-liệt (Thanh-trì, tỉnh Hà-đông); đến cuối tháng, dời sang Đông Phù-liệt. Đầu năm 1427, Lê Lợi mới dời đại bản doanh lên đóng ở Bồ-đề (thuộc Gia-lâm) đối diện với thành Đông-quan.

(3) Trần Chúa đây là Trần Cảo do Lê Lợi mới lập nên.
 
12. THƯ CÓ HÌNH NỘI QUAN CÙNG
BỌN ĐẢ TRUNG VÀ LƯƠNG NHỮ HỐT(1)

Thư tỏ cùng Hình đại nhân và Đả, Lương chư công: Hiện nay hòa hảo đã thành, các ngài nên mau chóng thu xếp hành trang đợi Thái-công tự Nghệ-an đến và quân Diễn-châu qua đây thì cùng đi một thể. Hiện nay cầu sàn trên đường đều đã sửa chữa, lương thực cung cấp cũng đã chuẩn bị, nếu các ngài không đi, chỉ sợ Thái công đi rồi thì không ai đi cùng, lương thực e hoặc thiếu thốn, cầu sàn e hoặc đổ sụt, sau này thật là khó khăn. Vì thế xin báo các ngài biết.

(1) Hình nội quan (chưa rõ tên) cùng với chỉ huy Đả Trung và tham chính Lương Nhữ Hốt là những viên quan và tướng của địch đang cố thủ ở thành Thanh-hóa tức Tây-đô (hay thành nhà Hồ, nay thuộc huyện Vĩnh-lộc, Thanh-hóa).

13. LẠI THƯ CHO ĐẢ TRUNG VÀ LƯƠNG NHỮ HỐT(1)

Thư tỏ cùng Đả lão quan, Lương tướng công cùng các vị. Nếu muốn cả nhà lớn bé đều được bình yên vô sự, các ngài nên nghe lời tôi, mau chóng thu xếp hành trang, ra ở ngoài thành, đợi quan quân ở Nghệ-an Diễn-châu để cùng đi. Nếu không thế thì sau này hối không kịp đâu! Các ngài há chẳng thấy quân nhân các thành Diễn-châu, Nghệ-an, Thuận-hóa, hiện nay vợ con đều được an toàn, vui vui vẻ vẻ, không có việc gì. Sao các ngài lại không nghĩ tới điều đó, mà cứ muốn tự khổ như thế? Nếu tôi quả có bụng muốn hại các ngài, thì không có cách nào thoát đâu. Hiện nay Thánh thượng(2) rộng ân cho sắc chỉ cho quan Tổng binh(3) được tiện nghi hành sự(4), cho lập họ Trần rồi đem quân về Kinh, để hai nước khỏi nỗi khổ can qua. Tôi cũng lấy đạo nhân nghĩa, hết lòng kính thời Triều đình, phàm quan quân của Triều đình đều được đưa về hết. Các nơi đi qua, cầu đường sửa sang hết, lương thực cung cấp đầy đủ, thế là tôi muốn để tiếng mãi nghìn đời về sau, nên không muốn cùng các ngài tranh giành được thua một lúc. Hoặc nếu không làm như thế, thì chỉ trong khoảng một tháng, các ngài dẫu có thành đồng hào nóng(5) cũng phải bỏ thôi! Đến lúc bấy giờ thì không làm sao được nữa. Trộm nghĩ kế cho các ngài, chẳng gì bằng mau mau lên đường. Xin chớ hồ nghi mà hỏng việc. Thư nói không hết.

(1) Cuộc vận động thuyết phục của Nguyễn Trãi đã đưa lại nhiều kết quả: quân Minh tron các thành Diễn-châu, Nghệ-an, Tân-bình, Thuận-hóa, lần lượt nộp thành trì xin rút quân về nước. Nhưng ở Thanh-hóa (Tây-đô), bọn chỉ huy Đả Trung và tham chính Lương Nhữ Hốt vẫn ngoan cố chống đối việc giản hòa. Bọn chúng ra sức cố thủ chờ viện binh và tìm cách xuyên tạc lập trường giảng hòa của ta. Bọn ngụy quan cao cấp như tham chính Lương Nhữ Hốt cùng với đô ty Trần Phong, đô chỉ huy Trần An Vinh… lo sợ quân Minh rút lui sẽ không có đất dung thân, nên càng phá hôại công việc giảng hòa. Bọn này nhắc lại câu chuyện đời Trần, Ô Mã Nhi là một tướng Nguyên bị bắt sống và được cho về nước, nhưng rồi nhà Trần ngầm sai người đục thuyền giết chết ở biển cả. Chúng muốn xuyên tạc điều kiện hòa do Lê Lợi - Nguyễn Trãi đề ra và đe dọa quân Minh. Nguyễn Trãi viết bức thư thứ hai này cho quân địch ở thành Thanh-hóa để phân tích rõ lợi hại của việc giảng hòa và cảnh cáo bọn tướng giặc ngoan cố.

(2) Thánh thượng ở đây chỉ vua Minh.

(3) Tổng binh Vương Thông.

(4) Tiện nghi hành sự: được tùy tiện làm việc không phải tâu lên đợi lệnh.

(5) Thành đồng hào nóng: Ở Hán thư có câu: “Giai vi kim thành thang trì, bất khả công dã” (đều là thành bằng đồng, hào nước sôi, không thể đánh được).
 
14. LẠI THƯ TRẢ LỜI VƯƠNG THÔNG(1)
(Tháng 12(2), bọn Vương Thông ở thành Đông-quan đưa thư trách ta phụ ước mà giết hại quân lính đi lấy cỏ(3). Vì thế có thư đáp lại).

Tôi nghe: Người Việt(4) kiêu bạc, người Tề trí trá, ấy là bởi khí đất sinh ra, tính người bẩm thụ, đó là lẽ thường xưa nay, nên chỉ trong đó dẫu có người trung tín thành thực mà cũng bị mang tiếng lây. Nay các hạ(5) bảo là “trước sau bất nhất”, đó là tại sứ nhân đi lại, không hiểu sự thế, đến nỗi hai quân ngờ vực nhau, chứ tôi nào dám có bụng gì khác đâu. Cúi mong các ngài xét rõ mà thứ cho. Như bảo “quân lính đi lấy cỏ cứ thấy bị giết”, thì đó vì những quân thượng du, lũ Xa Tham, bọn Hồng y(6), hoặc có tính tham của mà thích giết người nên đến nỗi thế chăng? Tôi vốn không hề nghe thấy. Nhưng cũng đã răn bảo, lâu nay chúng đã yên thuần. Như bảo “quân nhân các vệ(7) chưa thấy đưa đến”, đó là vì đường xá lối hiểm, quân lính khó đi; song sẽ lục tục đến nơi, có thể bấm đốt ngón tay mà đợi, không phải là dám quên đâu. Như bảo “sứ nhân mang biểu cũng chưa thực đã đến Khâu-ôn(8)”, đó là vì người đưa sứ giả(9) lười nhác không chịu đi, lại về phao những điều không căn cứ để thêm sinh chuyện. Bọn tôi thực không có ý gì khác cả. Nếu các hạ không tin thì xin lại sai một vài người thân tín cùng đi với hai ba người đầu mục của tôi đến ngay Khâu-ôn, xét hỏi thực hư để rõ thật dối, như thế cũng được. Như bảo “thuyền ghe, cầu đường chưa thấy sửa sang”, thì đó là vì hòa hảo chưa định, nên mới khiên diên. Như việc hòa hảo đã thành, thì việc sửa lại cũng chưa muộn. Từ đây về sau, giá ngài bỏ cái lòng nghi hoặc, dốc lòng hòa hảo, thì dưới sẽ làm cho An-nam thoát khổ lầm than, trên sẽ khiến Trung-quốc khỏi nỗi nhọc mệt, thực là phúc cho thiên hạ lắm.

(1) Vương Thông giảng hòa với âm mưu hoãn binh để chờ quân cứu viện. Vì vậy, một mặt hắn thỏa thuận với Lê Lợi - Nguyễn Trãi chờ quân các thành bị vây về Đông-quan rồi sẽ rút về nước, mặt khác vẫn đào hào đắp lũy lo cố thủ và phái người mang mật thư lẻn về nước xin viện binh. Hắng thường lợi dụng một vài hành động của nghĩa quân như bắt giết quân Minh ra khỏi thành, chưa phái sứ sang nhà Minh xin thần phục và cầu phong, chưa sửa sang cầu đường cho quân Minh về nước, v.v… để trách ta bội ước rồi kéo dài thời gian hương lượng và trì hoãn việc rút quân. Trong bức thư này, Nguyễn Trãi trả lời và biện bạch từng điều Vương Thông nên lên để lấy cớ không chịu rút quân. Thư gửi trong tháng 12 năm Bính ngọ.

(2) Tháng 12 năm Bính ngọ (1426), tính ra dương lịch là khoảng từ 29-12-1426 đến 27-1-1427.

(3) Sau khi Vương Thông đã thỏa thuận về điều kiện giảng hòa, Lê Lợi - Nguyễn Trãi ra lệnh nới rộng vòng vây thành Đông-quan và các thành, cho quân Mỉnh ra vào mua bán, cắt cỏ cho lừa ngựa. Nhưng Vương Thông lợi dụng việc đó để hoạt động do thám và cho hàng chục người khác lén lút mang thư về nước xin viện binh. Vì vậy, tháng 12 năm Bính ngọ, quân ta xiết chặt vong vây và đón bắt quân địch ra vào, bắt được hơn 3.000 người do thám và 500 con ngựa (Toàn thư q. 10, tờ 25b). Vương Thông lại nhân đó trách ta phụ ước.

(2) Người Việt ở đây chỉ người Việt thời Xuân Thu ở đất tỉnh Chiết-giang, Giang-tô của Trung-quốc ngày nay.

(5) Các hạ là cách xưng hô các quan tam công, hay hầu bá, quận thú.

(6) Quận thượng du ở đây là chỉ nghĩa quân miền núi. Xa Tham hay Xa Khả Tham (cũng đọc là Sâm) là một tù trưởng Thái ở Mường Muổi (Mộc-châu) theo Lê Lợi, được phong đến chức Nhập nội tư không đồng bình chương sự, tri Đà-giang trấn thượng bạn. Bốn con trai của ông là Lộc, Khát, Bàn, Điểm đều được phong làm thượng tướng quân, đại tướng quân. Hồng y nghĩa là “áo đỏ” tên gọi một phong trào đấu tranh rộng lướn chống quân Minh của các dân tộc miền núi phía bắc và tây bắc lúc bấy giờ. Nghĩa binh “áo đỏ” về sau cũng theo Lê Lợi. Trong thư này, Nguyễn Trãi coi việc bắt giết quân Minh đi ra thành như hành động tự phát của một số nghĩa binh để bớt khỏi căng thẳng với Vương Thông.
(7) Vệ và Sở là những đơn vị trong phiên chế quân Minh. “Quân nhân các vệ” ở đây là số quân Minh trong các thành phía nam và số tù binh nghĩa quân bắt được.

(8) Khâu-ôn là một thành lũy của quân Minh ở Lạng-sơn, nằm trên con đường từ Đông-quan (Hà-nội) lên cửa ải Pha-lũy (Mục-nam quan), ở khoảng tỉnh lỵ Lạng-sơn ngày nay. Theo điều kiện giảng hòa đã thỏa thuận thì Lệ Lợi nhận cử sứ giả mang biểu cầu phong sang nhà Minh xin phong và triều cống.

(9) Người của Vương Thông cử đi theo sứ giả của Lê Lợi sang nhà Minh. Tháng 12 năm Bính ngọ, Vương Thông cử viên tri châu châu Chính-bình là Hà Trung cùng với phó thiên hộ Quế Thắng, bề ngoài đi theo sứ giả của Lê Lợi, nhưng thực ra là lợi dụng chuyến đi này để về nước xin viện binh. Đến Xương-giang (Hà-bắc) thì âm mưu đó bị bại lộ. Lê Lợi sai bắt giữ Hà Trung và Quế Thắng. Vì vậy đoàn sứ giả chưa đến Khâu-ôn. Nhưng trong bức thư này, Nguyễn Trãi cũng tránh những vấn đề gay cấn đó bằng lời lẽ mềm mỏng.
 
15. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG SƠN THỌ(1)
Tôi nghe nói: “Tín giả quốc chi bảo, Nhân nhi vô tín, kỳ hà dĩ hành chi tai?” (Điều tín là vật báu của nước. Người ta mà không có điều tín, thì liệu lấy cái gì mà làm việc?). Mới đây được ngài gửi thư và sai người đến ước hòa, tôi đã nhất nhất nghe theo. Nay thấy ở trong thành vẫn còn đào hào cắm chông, dựng rào đắp lũy, phá đồ cổ (Sử ký(2) chép: Vương Thông lấy chuông Qui-điền và đỉnh Phổ-minh(3) phá ra đúc làm súng đạn. Lại đắp cao thành Đông-quan dựng lũy kép, đào hào, thả chông), để đúc ống phun lửa(4) và đồ binh khí, thế là các ngài định đem quân về nước chăng? Hay giữ bền thành trì chăng? Tôi đều không thể rõ được. Sách Truyện(5) có câu: “Bất thành vô vật” (Không có thành thực thì sự vật gì cũng không có được), là bởi lòng mà không thực thì việc gì cũng là giả dối cả. Các ngài nếu thực không bỏ lời ước cũ thì phàm làm gì cũng nên lợi hại rõ ràng. Muốn rút quân thì cứ rút quân, muốn cố giữ thì cứ cố giữ, hà tất ngoài thì nói giảng hòa mà trong thì mưu tính khác? Đừng nên trước sau trái nhau, trong ngoài bất nhất như thế. Kể ra tiểu dân dẫu ngu dốt nhưng rất sáng suốt. Tôi đây tuy hôn ngu không biết gì, nhưng tất như lời Khổng tử nói “Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an”(6), thế thì nhân tình thực dối thế nào, mảy may cũng không thể che giấu được. Thư nói không hết.

(1) Âm mưu lợi dụng việc giảng hòa để hoãn binh của Vương Thông càng ngày càng lộ rõ. Hắn ra sức đốc thúc quân lính đào hào cắm chông, đắp lũy dựng rào và đúc thêm các loại vũ khí để cố thủ lâu dài ở thành Đông-quan cho đến khi viện binh nhà Minh sang. Trong thư này, Nguyễn Trãi tố cáo âm mưu đen tối và thái độ lật lọng của Vương Thông. Thư gửi trong tháng 12 năm Bính ngọ (29-12-1426 đến 27-1-1427).

(2) Tức Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (q. 10, 23 a và 25 b).

(3) Chuông Quy-điền và vạc Phổ-minh là những thứ đồ đồng lớn đúc từ đời Lý nằm trong bộ “An nam tứ khí” bị quân Minh phá đúc súng đạn. Chuông Quy-điền là chuông lớn ở chùa Một-cột (Hà-nội). Vạc Phổ-minh là vạc lớn ở chùa Phổ-minh (Nam-định, Nam-hà).

(4) Ống phun lửa dịch chữ “hỏa đồng”, là một thứ vũ khí thồi đó gồm một ống tròng bằng kim khí để đốt thuốc súng phun về phía đối phương.

(5) Truyện ở đây là sách Trung dung trong bộ Tứ truyện.

(6) Theo sách Luận ngữ, Khổng tử có nói: “”Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhãn yên sưu tai! Nhân yên sưu tai!”, nghĩa là: xem việc làm như thế nào, xét lý do tại sao mà làm, nhận thấy có vui vẻ mà làm hay không, thì có ai giấu giếm đâu được ta! Có ai giấu giếm đâu được ta! Ở đây Nguyễn Trãi có ý cho rằng dùng phương pháp xem người như thế thì giặc dầu quỷ quyệt, cũng không lừa dối nổi.
 
16. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Trước đây được thư của ngài cùng bản thảo tâu nói “nên tha tội cho nước An-nam, lại lập con cháu họ Trần”(2), tôi cùng bọn đầu mục quân nhân, ai cũng hân hoan cổ võ, cùng bảo nhau rằng: “Nếu quả được như thế, thì từ nay về sau Bắc Nam sẽ vô sự”. Song trời thì cao mà hoàng đế thì xa, ngài thì quyền hành không qui nhất, chính sự do nhiều người, lời nói trái với việc làm, mỗi người một bụng(3). Phàm các điều ngài nói, các việc ngài làm ngày trước, tôi đã thấy rõ cả rồi(4). Không biết công việc ngày nay sẽ ra thế nào? Vì thế tôi cứ giữ khư khư cái kiến thức hẹp hòi, mà nằm chẳng yên giường, ăn không ngon miệng, canh cánh bên lòng, muốn thôi không được. Huống chi sự thế ngày trước với sự thế ngày nay, thực cùng một mối, thế mà một người bảo phải, mười người lại bảo trái, một người làm việc, mười người lại phá việc. Người ta nói: “Làm nhà bên đường, ba năm không xong” là thế đấy. Xét vì việc làm như thế, cho nên chúng tôi đến nay vẫn khôn xiết nỗi khổ sở. Ngài nếu thiết tha đến chúng tôi, thì đừng làm như ngày trước nữa, mà nên để tâm muôn nghìn phần, thế là may mắn lớn cho tôi. Thư nói không hết.

(1) Thư này cũng gửi trong khoảng tháng 12 năm Bính ngọ (29-12-1426 đén 27-1-1427) để tiếp tục vạch rõ sự bất nhất giữa lời nói và việc làm của Vương Thông.

(2) Nguyễn Trãi dẫn lại một đoạn trong bản thảo tờ tâu của Vương Thông lên triều đình nhà Minh.

(3) Trong số quan và tướng nhà Minh ở Đông-quan lúc bấy giờ có nhiều người kịch liệt phản đối giảng hòa, tiêu biểu là Phương Chính, Mã Kỳ.

(4) Vương Thông bề ngoài xin giảng hòa rút quân về nước, nhưng kỳ thực vẫn lo cốt thủ ở thành Đông-quan.
 
17. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Trước đây vâng biểu tiếp thư của ngài cùng lời sứ giả, điều nói là “Chỉ theo lời ước trước, không có điều gì khác”; lại nói “sáng mà tiến biểu, tối sẽ rút quân”(2), bức thư mực chưa khô, lời nói bên tai còn vẳng. Nay sứ đã đi rồi, mà người tiễn sứ cũng đã về rồi, không rõ ngài có quả theo lời nói trước không? hay lại có điều gì khác chăng? Nếu quả theo lời nói trước, thì báo cho rõ ràng, khiến tôi được sửa sang cầu đường, chuẩn bị lương thực để đời ngày đi. Nếu có điều khác, thực sự điều tín không bỏ được đâu. Cổ nhân có câu: “Khử thực khử binh, tín bất khả khử” (Lương ăn và quân có thể bỏ được, điều tín không thể bỏ được), cho nên Văn công không tham lợi đánh nước Nguyên(3), Thương quân không bỏ thưởng dời cây gỗ(4). Nay ngài là bực tướng có đọc thi thư, lại không bằng Văn công Thương quân hay sao? Định bỏ điều tín hay sao? Thư nói không hết.

(1) Thư này cũng gửi trong khoảng tháng 12 năm Bính ngọ sau khi nhận được thư trả lời của Vương Thông.

(2) Trước đây Vương Thông thỏa thuận hễ khi nào Lê Lợi sai sứ đem biểu cầu phong sang triều đình nhà Minh xin lập con cháu nhà Trần lên làm vua, thì lập tức quân Minh sẽ rút về nước.

(3) Thời Xuân thu, Tấn văn công đánh nước Nguyên, cho đem lương ăn ba ngày, hẹn ba ngày không đánh được thì về. Hễ ba ngày không hạ được thành, quân xin ở lại để đánh. Văn công nói: “Tín là vật báu của nước, và là cái để cho dân dựa. Được Nguyên mà mất tín, thì dân dựa vào đâu”. Liền cho lui quân một xá (30 dặm) để tỏ sự tín (Tả truyện).

(4) Thời Chến quốc, Thương Ưởng làm tướng nhà Tần. Ông chôn cây gỗ dài ba trượng ở nam quốc đô, truyền lệnh hễ ai dời cây gỗ sang cửa bắc được, thì thưởng cho 10 lạng vạng. Dân lấy làm lạ, không ai dám dời. Sau ông lại nói: “Ai dời được thì thưởng cho 50 lạng vàng”. Có người dời được cây gỗ ấy, ông liền thưởng cho 50 lạng vàng để tỏ là không nói dối (Sử ký).
 
18. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
(Vua tiến quân đến gần thành Đông-quan, cho nên gửi thư cho Vương Thông).
Trước vì trại đóng hơi xạ(2), thực khiến đi lại vất vả. Nay tôi muốn dời đến ở bên thành Bắc-giang(3), đối ngạn gần nhau, đi lại cho tiện. Kính bẩm để ngài biết ý, xin đợi tôn mệnh. Nếu có sự xử trí khác, xin ngài chỉ bảo cho, tôi lấy làm cảm ơn. Thư nói không hết.

(1) Tháng giêng năm Đinh mùi (28-1 đến 25-2 1427), Lê Lợi dời đại bản doanh từ (Đông Phù-liệt (Thanh-trì, Hà-nội) lên Bồ-đề (Gia-lâm, Hà-nội) đối diện với thành Đông-quan qua sông Nhị để trực tiếp chỉ huy việc vây hãm Đông-quan và dụ hàng Vương Thông. Chủ trương của nghĩa quân lúc bấy giờ là vây hãm và dụ hàng các thành, kết hợp tiến công quân sự với địch vận. Dù Vương Thông tỏ ra ngoan cố, Lê Lợi - Nguyễn Trãi vẫn duy trì quan hệ thương lượng giảng hòa để vận động kẻ thù và mở sẵn lối thoát cho quân Minh. Do đó, trước khi chuyển đại bản doanh lên gần thành Đông-quan, Nguyễn Trãi dùng lời lẽ mềm mỏng báo cho Vương Thông biết.

(2) Trước đây, ngày 21-11-1426, Lê Lợi đóng đại bản doanh ở Tây Phù-liệt (Thanh-trì, Hà-tây), rồi sau đó, dời sang Đông Phù-liệt (Thanh-trì, Hà-tây), cách Đông-Quang (Hà-nội) chừng 15 ki-lômét.

(3) Phủ Bắc-giang thời thuộc Minh gồm hai huyện là Siêu-loại (Thuận-thành, Hà- bắc), Gia-lâm (Gia-lâm, Hà-nội) và ba châu là Gia-lâm, Vũ-ninh, Bắc-giang. Châu Gia-lâm có ba huyện: An-định (bắc Gia-lương, Hà-bắc), Tế-giang (Văn-giang, Hải-hưng), Thiện-tài (nam Gia-lương, Hà-bắc), Châu Vũ-ninh có năm huyện: Tiên-du (bắc Tiên-sơn, Hà-bắc), Vũ-ninh (Võ-giàng, Hà-bắc), Đông-ngạn (nam Tiên-sơn, Hà-bắc và Đông-anh, Hà-nội), Từ-sơn (Quế-dương, Hà-bắc), Yên Phong (Yên-phong, Hà-bắc), Châu Bắc-giang có ba huyện Yên-phúc (Đa-phúc, Vĩnh-phú), Thiện-thi (Hiệp-hòa, Hà-bắc), Yên-việt (Việt-yên, Hà-bắc). Phủ Bắc-giang lúc đó gồm cả đất Gia-lâm (Hà-nội) ở bắc sông Nhị, đối ngạn với thành Đông-quan.
 
19. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Kính đạt ngài Tổng binh. Tôi nghe nói trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai, mặt trời mặt trăng không soi riêng ai. Cho nên đấng vương giả lấy bốn biển làm nhà, vốn không phân biệt kẻ xa người gần. nay được luôn tôn thư, hứa sẽ thỉnh mệnh rút quân, muốn lấy tờ tâu của hai ngài Thái giám để xin lập con cháu họ Trần. thế thật là các ngài đã vì nước hết trung, tôn vua theo nghĩa, so với việc năm trước cầu công tâu bậy rằng con cháu họ Trần không còn ai(2), thật khác hẳn vậy. Được như lời ấy thì không những là may cho một nước Giao-chỉ(3), mà cũng là may lớn cho vạn bang trong thiên hạ vậy. Ân đức của Triều đình đã như trời đất che chở, nhật nguyệt chiếu soi, thì ngài có ra mệnh lệnh gì, tệ ấp(4) nào dám sai trái. Ngay ngáy khôn xiết sợ lọ, đợi chờ mệnh lệnh.

(1) Để thực hiện kế hoãn binh, Vương Thông viết thư cho Lê Lợi hứa sẽ xin cho vua Minh cho rút quân về nước, lập con cháu họ Trần lên làm vua. Đây là thư trả lời của Nguyễn Trãi.

(2) Trước đây, nhà Minh nêu chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để che đậy dã tâm xâm lược, nưhng sau khi chiếm được nước ta, lại lấy cớ con cháu nhà Trần không còn ai để đặt làm quận huyện. Nay trước nguy cơ thất bại, nhà Minh lại đòi Lê Lợi lập con cháu nhà Trần lên làm vua vừa để biện hộ cho cuộc xâm lược nước ta, vừa để mở đường rút lui, giữ thể diện triều đình Minh.

(3) Sau khi chiếm được nước ta nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao-chỉ, âm mưu sáp nhập vào lãnh thổ Trung-quốc.

(4) Tệ ấp là cách tự xưng của các nước chưa hầu đối với vua nước lớn.
 
20. LẠI THƯ CHO SƠN THỌ(1)
Đạt Sơn lão đại nhân rõ: Trước đây kính gửi thư, chưa được ưng chuẩn. Nay muốn lại đánh liều thất lễ, chỉ sợ phiền nhảm. Song người đau ốm thì kêu trời đất cha mẹ, đó cũng là thường tình phải thế. Mới rồi đã nhiền lần đem việc người sách Khả-lam(2) bị quan quân bắt, kêu xin tha về, không biết thế nào lại không thấy một người nào được về cả. Về những thổ quan cùng thổ nhân khác, tôi đã không dám lại làm phiền ngài, còn như người Khả-lam, họ đều là cố cựu, thân thích, nô tỳ của tôi lẽ nào tôi lại thản nhiên được. Vì thế, bất đắc dĩ tôi phải lỗ mãng phạm uy mà lại kêu nài làm phiền ngài vậy. Thư nói không hết.

(1) Trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam-sơn, quân Minh đã nhiều lần vây quét vùng Lam-sơn, lùng bắt bà con thân thuộc của Lê Lợi, trong đó có cả người con gái của ông, và vợ con của nghĩa quân để dụ dỗ, uy hiếp. Nhân lúc giảng hòa, Lê Lợi đã nhiều lần xin tha cho những người bị bắt, nhưng không có kết quả. Nay Nguyễn Trãi lại viết thư cho Sơn Thọ xin tha những người ở vùng Lam-sơn bị quân Minh bắt trước đây.

(2) Sách Khả làm là Kẻ Lam tức Lam-sơn, quê hương của Lê Lợi.
 
21. BIỂU CẦU PHONG(1)
Thần Lê Lợi, tri phủ phủ Thanh-hóa(12 thuộc ty Bố-chính Giao-chỉ, sợ hãi cúi đầu kính dâng lời:

Thần trộm thấy lúc đại quân mới bình định, có chiếu tìm lập con cháu họ Trần cho phụng thờ tôn tự. Bấy giờ các quan Đô Bố Án(3) chưa kịp tìm kiếm khắp nơi, chỉ hỏi thổ nhân nói tâu rằng con cháu họ Trần đều bị họ Hồ tru diệt, không còn ai có thể kế tập(4). Bèn bàn đặt phủ huyện bổ quan cai trị. Đến năm đầu niên hiệu Hồng-hy (Nhân tôn nhà Minh, 1425), thần cùng kỳ lão bản quốc dò hỏi tìm được ở đất Lão-qua(5) có Trần Mỗ(6) thực là cháu đích tôn của Trần Vương Mỗ(7) sẵn tính thông minh, vốn lòng trung nghĩa, đáng được kế lập. Xin cho được tập phong, theo lệ nạp cống như xưa. Kính cẩn sai Mỗ(8) dâng biểu tâu bày:

Kính thấy: Thang Võ cứu dân mà đánh kẻ có tội(9), việc chẳng thể dừng; Kỷ Tống(10) nối dõi để dấy nước đã suy, nghĩa nên như thế. Việc xưa xét lại, minh chứng rõ ràng. Thần Lê Lợi trộng nghĩ: Thánh nhân thống trị chẳng qua chín châu(11); vương giả lòng nhân đều xem như một. Này như Giao-chỉ, xa cách Trung-hoa, Hán Đường lỏng đặt ky mi(12), Tống Nguyên nhân mà phong tước. Đến triêu ta(13) khi Thái Tổ dựng nghiệp thì họ Trần trước các nước vào chầu. Hàng năm tiến cống đế đình; nối đời tập phong vương tước. Mới rồi nhân họ Hồ thất đức, đến khiến thiên thảo(14) ra oai. Triều đình khoan nhân, chiếu tìm con cháu họ Trần cho thừa tự; biên thần(15) dối trá, tâu đặt quận huyện Giao-chỉ mà bố quan. Ngặt vì dân tâm còn mê đắm ở tục thường, vả lại di tập thật khó khăn cho giáo hóa. Cứ theo thói cũ, nên chịu vạ tai. Dân chúng giạt xiêu, luôn năm lìa tan khôn kể xiết binh sĩ đánh chác, luôn năm chết chóc đáng thương thay. Bọn thần nghĩ dân đen là kẻ vô cô, thương họ Trần gặp khi tuyệt tự. Đâu dám như Triệu Đà dùng hoàng ốc(16); trộm muốn học Trình Anh(17) giữ cô nhi. Đầu là theo ý chúng mà thuận tình dân; cho nên phải liều thân tàn mà dựng nghĩa lớn. Tự biết ngẩng đầu lên là phạm phép; nhưng lo không có chỗ để đặt mình. Có đau phải kêu, ấy thực tình người tất thế; biết lỗi thì đổi, đã xin lượng thánh cũng dung. Rỏ máu giải tình; kêu trời xin mệnh. Kính thấy Hoàng đê bệ hạ, trời che đất chở, nhật chiếu nguyệt soi. Tựa biển chừa, tựa xuân sinh, lượng bao dung gồm cả như may đi, như mưa rắc, ân cởi mở khắp tràn. Tất tôn tiền vương mà chọn kẻ nối thờ; tất dựng diệt quốc mà nối dòng đã tuyệt. Tất như Hán Võ lấy việc bỏ Luân-đài(18) mà nhận lỗi; tất như Đường Thái lấy việc đánh Cao-ly mà ăn năn(19). Lỗi thì xá, tội thì tha, lòng hiếu sinh rộng mở; binh được thôi, dân được nghỉ, việc yển vũ(20) sớm bàn. Thực lòng quy thuận; hết sức tỏ trung. Dâng biểu xưng thần, dám nguyện hầu phiên trọn chức; sợ trời thở lớn, chỉ xin tiểu quốc hết thành. Thần kẻ dưới hèn mọn, xiết nỗi trông trời ngóng thánh, cảm kích lo sợ, dâng biểu kính tâu, tỏ lời trần tạ.

(1) Để chuẩn bị giao thiệp với nhà Minh, cuối năm 1426 Lê Lợi lập Trần Cảo, một người tự xưng là con cháu nhà Trần, lên làm vua. Đây là biẻu cầu phong đứng tên Lê Lợi gửi sang nhà Minh để xin phong vương cho Trần Cảo.

(2) Năm 1424, nhà Minh phong cho Lê Lợi là tri phủ Thanh-hóa với âm mưu dùng chức tướcđể mua chuộc người lãnh tụ của nghĩa quân Lam-sơn. Nay Lê-Lợi lấy chức tước đó để giao thiệp với nhà Minh và cầu phong cho Trần Cảo.
(3) Đô Bố Án là ty Đô, ty Bố Chính, ty Án Sát, ba cơ quan đứng đầu chính quyền đô hội của nhà Minh ở nước ta.

(4) Tháng 6 năm 1407 sau khi chiếm được nước ta, Trương Phụ sai bọn Việt gian Mạc Thúy lấy danh nghĩa là kỳ lão nước ta làm tờ biểu tâu về triều đình nhà Minh rằng: họ Trần không còn ai nữa, đất An-nam vốn thuộc Giao-châu ngày xưa, vậy xin đặt làm quận huyện như cũ.

(5) Nước Lão-qua hay Ai-lao, tức là nước Lào ngày nay.

(6) Trần Mỗ đây là Trần Cảo.

(7) Trần vương mỗ ở đây là vua Trần Nghệ-tông (1370-1372), Trần Cảo tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ-tông.

(8) Mỗ ở đây là Lê Lợi.

(9) Vua Kiệt nhà Hạ và vua Trụ nhà Ân đều là những bạo chúa. Thành Thang diệt Kiệt, Vũ vương đánh Trụ là những người có công đánh kẻ có tội để cứu dân.
(10) Xua Vũ vương đánh được Thương, tìm dòng dõi vua Vũ nhà Hạ, được Đông-lâu công, phong cho ở nước Kỷ để phụng sự vua Vũ. Vũ vương đánh nhà Trụ diệt nhà Thương, lại phong cho con Trụ là Vũ Canh ở nước Tống để phụng sự vua Thang.

(11) Chín châu là: Duyện, Kỳ, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương. Đó là chín châu gồm lãnh thổ Trung-quốc đời xưa.

(12) Ky mi: Ky là dây buộc đầu ngựa, mi là dây xỏ mũi bò. Ky mi có nghĩa là ràng buộc.

(13) Triều ta: chỉ nhà Minh.

(14) Thiên thảo là sự trừng phạt của trời.

(15) Biên thần là quan lại ở nơi biên cương, ở đây chỉ bọn quan lại nhà Minh ở nước ta.

(16) Xưa kia Triệu Đà ở Nam-Việt xưng vương, dùng xe mui vàng (hoàng ốc), có cờ cắm bên tả như nghi vệ của thiên tử ở Trung Quốc.

(17) Trình Anh người nước Tấn, thời Xuân Thu, cùng với Công-tôn Chủ-cữu là bạn thân của Triệu Sóc. Sóc bị Đồ Ngạn-Giả giết chết. Sau khi Sóc chết, vợ Sóc sinh được một con trai. Chủ-cữu cùng với Anh lập mưu cứu được đứa con của Sóc. Chủ-cữu cõng một đứa bé con người khác vào giấu trong rừng, rồi cho Anh đi báo với Giả là Chủ-cữu mang con Sóc đi trốn. Giả sai người giết chế đứa bé và Chủ-cữu. Nhờ đó đứa con mồ côi của Sóc được Anh giấu đi thoát nạn.
(18) Vua Vũ đế nhà Tây Hán bắt nhân dân đi làm đồn điền ở Luân-đài để cung cấp lương thực cho quân lính đi đánh các nước phương Tây. Nhưng vì đường xa, quân lính bị chết nhiều, mà không thành công, nên Vũ đế hạ chiếu bãi bỏ đồn diền ở Luân-đài và thôi việc đánh nhau.

(19) Đường Thái-tông thân hành đi đánh Cao-ly, nhưng không sao hạ được thành Liêu-đông. Thái-tông ăn năn rằng: Nếu Ngụy Trưng còn sống thì không để trẫm có việc thân chinh này, rồi rút quân về.

(20) Yển vũ: đình chỉ việc dùng binh.
 
22. VĂN TẤU CÁO (LIỆT THÁNH NHÀ TRẦN)(1)
Nay năm Bính ngọ Thiên-khánh(2) thứ 2 (1426), tháng 12, qua ngày sóc(3) Canh thân, đến hôm nay 29 ngày Mậu tý, Nhập nội kiểm hiệu thái sư bình chương quân quốc trọng sự Đại thiên hoành hóa tứ kim ngư đại song kim hổ phù Tráng vũ vệ quốc công(4), thần Lê Lợi. thực lòng sợ hãi, cúi đầu giập trán, kính cẩn tâu dưới đức Thái tôn hoàng đế, đức Hiển từ thuận thiên hoàng thái hậu, đức Thánh tôn hoàng đế, đức Nguyên thánh hoàng thái hậu, đức Nhân tôn hoàng đế, đức Khiêm từ hoàng thái hậu, đức Anh tôn hoàng đế, đức Chiêu từ hoàng thái hậu, đức Chiêu tôn hoàng đế, đức Hiến từ hoàng thái hậu, đức Nghệ tôn hoàng đế, đức Thuận từ hoàng thái hậu, đức Túc tôn hoàng đế, đức Gia từ hoàng thái hậu, đức Trùng quang hoàng đế, mà nói rằng: Tổ phụ thần chịu nhiều ơn nước, đời làm cận thần, nghĩa phải hết trung ra sức. Từ khi giặc Minh chiếm cướp đất ta, ngược đãi dân ta, phạm vào lăng miếu các tiên đế, diệt hết con cháu họ Trần, thầm nằm gai nếm mật, hơn ba mươi năm, chỉ cốt phục thù, mong được rửa nhục. Năm Ất tỵ (1425)(5) tìm được Trần Mỗ ở đất Lão-qua là cháu ba đời của đức Nghệ tôn, năm nay đã chính đại hiệu đế thờ Tôn Xã. Một khi nghĩa binh mới dấy, bốn phương kéo đến như mây. Cho nên đánh một trận ở Trà-long(6) mà lấy lại đất Nghệ-an Thanh-hóa; đánh trận nữa ở Ninh-kiều(7) mà thu lại nước Đại Việt cõi xưa. Quân giặc các nơi đều đã ra thành hàng phục, duy còn thành Đông-quan chưa thể vội diệt. Thế thực là trời tựa Hoàng Trần, cho nên thành công được chóng; mà thần đẳng mặc giáp cầm gươm may được có chút công lao. Cúi nhờ Liệt thánh hoàng đế rủ lòng giúp đỡ, tiêu diệt quân Minh, để đem lại cái phúc thái bình muôn thuở. Thần kẻ dưới hèn mọn, xiết bao nỗi trông trời ngóng thánh, kính cẩn dâng tâu.

(1) Liệt thánh nhà Trần là những vị đế và hậu tổ tiên của nhà Trần.

(2) Thiện-khánh là niên hiệu của Trần Cảo. Bản chữ Hán in nhầm là Thiên-thành.
(3) Ngày sóc là ngày mồng một đầu tháng âm lịch.

(4) Chức, hiệu và tước của Lê Lợi.

(5) Theo Toàn thư và Cương mục thì đến tháng 11 năm Bính ngọ (1426), Lê Lợi mới lập Trần Cảo lên làm vua. Đại việt thông sử chép việc lập Trần Cảo vào tháng 11 năm Ất tỵ (1425), Lam Sơn thực lục lại chép vào năm Quý mão (1423). Những văn thư trong Quân trung từ mệnh tập chép việc này không thống nhất. Trong bài biểu cầu phong và bài Văn tấu cáo liệt thánh nhà Trần đếu nói tìm được Trần Cảo từ năm Ất tỵ (1425) và năm Bính ngọ (1426) là năm Thiên-khánh thứ 2. Nhưng trong bài Tờ tâu về việc tìm hỏi con cháu nhà Trần (bai 46) và bài Tờ tâu cầu phong (bài 44) lại nói tìm được Trần Cảo vào năm đầu niên hiệu Tuyên-đức, tức là năm 1426. theo Toàn thư và Cương mục có lẽ hợp lý hơn, vì xét lịch sử đấu tranh trong giai đoạn này thì năm 1426 Lê Lợi mới cần lập một người con cháu họ Trần lên làm vua để dễ giao thiệp với nhà Minh.
(6) Trà-long là đất huyện Tương-dương, tỉnh Nghệ-an ngày nay. Năm 1424 nghĩa binh tiến quân vào Nghệ-an và cuối năm ấy hạ được thành Trà-long. Đó là chiến thắng lớn đầu tiên của nghĩa binh.

(7) Ninh-kiều thuộc huyện Chương-mỹ tĩnh Hà-tây. Trận Ninh-kiều ở đây là trận Tốt-động - Chúc-động cuối năm 1426.
 
23. THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
(Năm Đinh vị (1427) vua tiến quân đến bờ phía bắc sông Lô(2) đối lũy với thành Đông-quan, Vương Thông và Sơn Thọ sai Nguyễn Nhận lại đưa thư. Vua có thư này gửi lại).

Kính thư gửi trước Tổng binh đại nhân. Tôi nghe nói: “Lấy thành thực đãi người thì người cũng lấy thành thực đáp lại”. Cái đạo chí thành có thể động đến trời đất, cảm được quỷ thân,, huống chi là người? Nay ngài vâng lệnh ra ngoài cửa khổn(3), nhẽ ra phải lấy thành thực đối đãi với người ta, thế mà lại đem lòng dối trá lừa người, tự cho là mưu cao, xem tôi là không biết gì. Việc ginh gian trá, ngoài nói giảng hòa, trong tính kế khác; trước nói hễ dâng biểu thì rút quân ngay, sau lại dựng rào đắp lũy, xây thành đào hào. Việc làm như thế, làm thành thực chăng? Là trá ngụy chăng? Ngày xưa quan đại phu ra ngoài biên cương, việc gì cũng được tự quyết. Huống chi ngài là bậc tướng súy đã đọc thi thư, khi vậng mệnh sang đây lại đã được phép tiện nghi hành sự, thế thì phàm công việc ở ngoai cửa khổn, há lại nhất nhất chờ mệnh lệnh của Triều đình sao? Vả lại binh quí mau chóng, máy then mở đóng, như xe chuyển, như mây bay, tỏng khoảng chốt lát, chợt nóng, chợt lại rét, ngài há lại không biết thế sao mà lại nghe kế bọn tôi gian Mã Kỳ, quân tàn Phương Chính, mà hồ nghi do dự, không dám quả quyết. Trước ngài đã có văn thư thu binh mã ở các vệ sở, lại bảo rằng vì trong thành đất hẹp, hãy trước đem quân nhân ở thành về, còn quân các vệ ở ngoài sẽ theo về sau. Đến nay quân các thành Diễn Nghệ đã lục tục kéo đến, mà lời nói khác lại hình như bắt gió bắt bóng, là chuyện hão huyền. Thế là ngài không những lừa dối một mình tôi, lại còn lừa dối cả hơn sáu bảy nghìn người ở vệ sở các thành. Tôi lấy lòng tôn kính Triều đình, thương hại tính mệnh hơn sáu bảy nghìn con người, nên nghiêm cấm quân sĩ không được phạm chút tơ hào. Thế mà ngài nghe kế của bọn tiểu nhân, định lấy lòng hại tôi để lây hại cho kẻ khác. Kể ra, ngựa Hồ hý gió bắc(4), chim Việt đậu cành nam(5), thường tình người ta, ai khỏi tưởng nhớ quê hương! Nay kế của ngài đã hỏng, hơn sáu bảy nghìn quân các vệ sợ căm hờn oán giận, sâu đến cốt tủy, chẳng ai là không nghiến răng nắm tay, thề không còn trông thấy mặt ngài. Họ đều xin tôi quyết một phen tử chiến. Nghìa nếu quả y lời ước cũ, thì nên rút quân về để trọn điều tử tế ngày trước. Tôi cũng xin dem quân nhân các thành cùng binh mã bắt được trả về đủ số. Nếu không như thế, thì tôi xin đem số quân các thành ngậm oán chứa giận cùng ba mươi vạn quân của tôi để thừa tiếp ở dưới thành. Tùy ngài xử trí thế nào, tôi xiết bao run sợ, đợi chờ mệnh lệnh. Thư nói không hết.

(1) Trước thái độ ngoan cố của Vương Thông, đầu năm 1427, Lê Lợi dời đại bản doanh lên Bồ-đề (Gia-lâm, Hà-nội) và ra lệnh khép chặt vòng vây quanh thành Đông-quan; Trịnh Khả đóng quân giữ cửa Đông, Đinh Lễ giữ cửa Nam, Lê Cực giữ cửa Tây, Lý Triện giữ cửa Bắc. Trước đó, nghĩa quân đồng thời mở cuộc tiến công vào các thành Điêu-diêu, Thị-cầu, Tam-giang, Xương-giang, Khâu-ôn. Vương Thông hoảng sợ, sai thông sự Nguyễn Nhậm mang thư ra cho Lê Lợi, dùng những lời lẽ giả dối để hòa hoãn tình thế, thực hiện âm mưu hoãn binh. Trong thư trả lời này, Nguyễn Trãi đã kiên quyết vạch trần những sự xảo trá của kẻ thù.

(2) Sông Lô ở đây là sông Hồng từ ngã ba Hạc trở xuống. Cần chú ý là trong thời Lý, Trần và thuộc Minh, sông Lô tức là sông Hồng; còn sông Lô hiện nay thì gọi là sông Bình-nguyên (đoạn chảy qua Hà-giang) và sông Tuyên (đoạn chảy vào sông Hồng qua Vĩnh-phúc); nhưng từ thời Lê về sau thì sông Lô chỉ là sông Lô ngày nay chảy qua Hà-giang,, Tuyên-quang, Vĩnh-phúc rồi chảy vào sông Hồng.
(3) Cửa khổn là cửa thành ngoài. Ra ngoài cửa khổn (xuất khổn) nghĩa là đem quân ra ngoài nước để đi đánh dẹp.

(4) và (5) Cổ thi có câu: “Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi” 胡馬嘶北風,越鳥巢南枝 (Ngựa Bắc Hồ thấy gió bắc thời hí, chim Nam Việt thấy cành Nam thời đậu). Thi nhân đã lấy truyện hai con vật ấy tưởng nhớ cố hương để tả mối tình nhớ nhà, nhớ nước.
 
24. THƯ CHO THÁI GIÁM SƠN THỌ(1)
Kính thư gửi trước Thái giám Sơn lão đại nhân. Tôi đối với ngài như đối với cha mẹ, từ trước đến nay không hề có chút niềm bạc bẽo. Ngày trước, tiếp được thư của ngài gửi cho, ước việc hòa giải, có nói: “Sau khi dâng biểu thì rút quân về ngay”. Nay sứ mang biểu đã đi rồi, người tiễn sứ nhân cũng đã trở về, thế mà việc rút quân hay không vẫn chưa thấy quyết định. Trong thư lại nói “sẽ thả hết thổ nhân(3) cho ra thành”, thế mà mấy tháng rồi vẫn chưa thấy một ai được thả về cả. Chẳng hay làm cha mẹ lại như thế ư? Sách Truyện có câu rằng: “Tự cổ giai hữu tử, vô tín bất lập”(3), (từ xưa đến giờ, ai cũng có chết người mà không tín thì không thể đứng vững được). Vì thế đấng vương giả không lừa dối bốn biển, đấng bá gia không lừa dối láng giềng. Nay ngài là cha mẹ lừa dối con ư? Kính xin ngài lấy bụng nhân từ, rủ lòng soi xét. Thư nói không hết.

(1) Thư này và thư số 25 tiếp theo, gửi cho Sơn Thọ nhằm vạch rõ sự dối trá của kẻ thù ở hai điểm: rút quân về nước và thả những người bị giam giữ trong thành. Hai thư này gửi trong khoảng tháng 1 năm Đinh mùi (28-1 đến 25-2-1427).
(2) Thổ nhân ở đây là những người nước ta bị giặc giam giữ.

(3) Câu Khổng Tử trả lời Tử Cống chép trong sách Luận ngữ. Cũng thường ghi là là 自古皆有死,民無信不立 Tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất lập.
 
25. LẠI THƯ CHO SƠN THỌ
Tôi nghe trời có bốn mùa, phải nhờ hành thổ mới vượng; người có bốn đức(1), phải nhờ điều tín để làm. Nếu hành thổ không thịnh, điều tín không có, thì đạo trời tất hỏng, việc người tất hư. Cho nên hoàng cực lấy thổ ở giữa, dân linh lấy tín làm thực, mà sau công việc của trời của người mới thỏa đáng. Tôi tuy ngu chậm, nhưng sở dĩ kính thờ ngài thủy chung như nhất là vì thế. Cớ soa ngài trước đã nói rõ ước định hòa giải bảo rằng “sau khi dâng biểu thì rút quân ngay”, thế mà nay sứ mang biểu đã đi rồi, người tiễn sứ nhân cũng đã trở về, mà việc rút quân hay không vẫn chưa thấy quyết định. Lại nói “sẽ thả hết thổ nhân cho ra thành”, thế mà mấy tháng rồi vẫn chưa thấy một ai được thả về cả. Chẳng hay bụng ngài ra thế nào? Sách Truyện có câu: “Vô tín bất lập”. Đấng vương giả không lừa dối bốn biển, đấng bá giả không lừa dối láng giềng, là cốt giữ điều tín như vậy. Ngài nghe điều ấy ở tai, chứa điều ấy ở bụng, suy điều ấy ra việc làm, thì đi đâu mà không trôi chảy, lại có thể lừa dối dân mà bỏ điều tín được ư? Thư này tới nơi, xin ngài lấy bụng nhân từ, rủ lòng soi xét. Thư nói không hết.

(1) Bốn đức là hiếu, đễ, trung, tín.
 
26. LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG(1)
Tôi nghe có người đem chim chắt chó săn vào rừng, bủa lưới chài xuống chằm, mà bảo người ta rằng: tôi không phải là người đi săn, là người đánh cá. Như thế thì dẫu dài mồm ba thước mà nói cũng không thể tự biện giải được. Chẳng bằng thả chim chó, vứt lưới chài, thì người ta tin ngay. Trước đây tôi nhiều lần tiếp thư của ngài nói muốn theo những lời trong chiếu thư của đức Thái tôn(2) khi mới đánh Giao-chỉ về việc cho lập con cháu họ Trần và nói rằng nếu tôi dâng biểu cầu phong thì sẽ rút quân về Kinh, tha tội cho nước An-nam. Lúc đâu ai ai cũng đều vui vẻ tin nhau. Sau mấy tháng ở trong thành cứ dựng thêm rào lũy, sửa sang đồ binh, thì mọi người lại nghi lại sợ. Dẫu tôi là người được đội ơn ngài như trời che đất chở mà cũng còn có phần ân hận, huống là người khác? Ngài nói không phải là người đi săn, là người đánh cá, nhưng ngài chưa thả chim chó, vứt lưới chài, để khiến người ta tin lời. Trước đó người ở Khâu-ôn vì uất ức tìm ra được tờ tâu mà ngày mồng 10 tháng chạp năm thứ 1 niên hiệu Tuyên-đức (1426) ngài sai thổ quan Vũ Nhàn dâng đệ, cùng bức thư mà ngày 16 tháng ấy ngài tục sai thổ quan Từ Thành dâng đệ(3). Tôi xem ý trong hai bản ấy mới biết ân đức của ngài như trời đất đối với muôn vật, phát dục tràn trề, sinh ý ngầm thì mà muôn vật không biết. Thư trước ngài trách tôi “không hay kính thờ trời đất cha mẹ”. Tôi không tự biết mang tội rất nặng, chỉ nhưng lo sợ, nhưng tin rằng ngài tất rủ lòng dung thứ, không trách bị đâu. Tôi lại thấy trong các văn bản ấy có nói “Không vì một góc đất mà làm nhọc thiên hạ”. Lời bàn ấy thật là xác đáng. Ví khiến ai ai cũng cùng lòng như thế thì thiên hạ tất vô sự rồi. Thế mà các quan trấn thủ, các nội quan cùng các quan Tam ty dẳng dai hội nghị, không đồng ý nhau, không biết các vị đại thần ở triều đình lại nhùng nhằng kéo dài bàn định như thế nào nữa? Nếu ngài quả mở lòng thành, như thư trước đã nói khi phụng mệnh sang đây được tiện nghi hành sự và được về trước không phải đợi mệnh, thì ngì nên quyết định chí về, vừa để giải binh tiêu oán, làm phúc cho sinh linh thiên hạ, vừa để đưa đân đời sau, hà tất lại xin vài vạn quan quân để hộ viện. Ngài nên nghĩ lại, chẳng gì bằng thả chim chó vứt lưới chài là hơn. Nếu may mà không nuốt mất lời trước, thì tôi xin mở đường về, phàm sửa chữa cầu đường, cung cấp lương thực, đều xin chuẩn bị sẵn sàng, để đợi quân ở các thành Nghệ-an, Thuận-hóa, Tân-bình và Tiền-vệ, không phạm mảy may. Chỉ xin tuân theo mệnh lệnh của ngài. Sự hiềm nghi của đôi bên đều tiêu tan hết. Có trời, có đất, xin chứng giám cho nếu trái ước này, thần minh tru diệt. Kính xin ngài rủ lòng xét định.

(1) Thư gửi Vương Thông trong khoảng tháng 1 năm Bính mùi để tiếp tục phân tích thái độ giả dối của kẻ thù, lời nói không phù hợp với việc làm.
(2) Tức Minh Thành-tổ (1403-1424). Khi xâm lược nước ta năm 1406-1407, vua Minh có ban bố tờ chiếu thư lấy chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để che đậy âm mưu xâm lược, lừa dối nhân dân ta. Sau khi chiếm được nước ta, quân Minh đã vứt bỏ chiêu bài giả nhân giả nghĩa đó. Nhưng từ cuối năm 1426, sau những thất bại nặng nề, Vương Thông và nhà Minh lại dùng chiêu bài đó để vớt vát thể diện của triều Minh, đòi lập con cháu nhà Trần lên làm vua như một điều kiện giảng hòa, rút quân.

(3) Cuối năm 1426, Vương Thông lén lút cho người về nước và lợi dụng cả việc người đưa sứ giả của Lê Lợi sang nhà Minh để mang tờ tâu về triều Minh. Nhưng trên đường đi, những người đó đều bị nghĩa quân phát hiện và bắt giữ, nhân đó tìm được mật thư của Vương Thông. Ở đây Nguyễn Trãi chỉ nêu lên hai tờ tâu do Vương Thông sai Vũ Nhàn và Từ Thành mang đi vào ngày 10 và 16 tháng chạp năm Bính ngọ (ngày 7 và 13-1-1427).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét