Nguyễn Gia Kiểng 034


Phản xạ tổng thống
  Trong một cuộc nói chuyện cách đây không lâu, một nhân vật từ trong nước ra có lúc đã nỗi sùng cự lại tôi: Thế anh muốn gì? Anh đòi làm tổng thống hay sao?. ý vị này là trách tôi đòi thay đổi quá nhiều. Dầu sao ở miệng của một người cộng sản hai tiếng tổng thống cũng là lạ vì chức vụ tổng thống không hề có trong các chế độ cộng sản. Tôi
cũng nhớ vào giai đoạn mở cửa của ông Nguyễn Văn Linh trong đó trí thức trong nước được phép thi đua phê phán chế độ, Dương Thu Hương đã có một bài tham luận đặc sắc; theo một bài tường thuật, một vị cao niên nào đó đã tán thành đến độ nói với Dương Thu Hương: Sau này tôi sẽ bầu cho cô làm tổng thống. Đối với nhiều người Việt nam, kể cả người cộng sản, có lẽ tương lai của Việt nam sau này đương nhiên là chế độ tổng thống. Tuy nhiên chế độ tổng thống là một chế độ rất dở. Cho đến nay trong lịch sử thế giới đã chỉ có một trường hợp chế độ tổng thống tương đối thành công là Hoa Kỳ. Tất cả các quốc gia theo chế độ tổng thống đã thất bại. Trong đại đa số, nó đưa đến độc tài, trong những trường hợp còn lại, nó đưa đến một xung đột bế tắc giữa tổng thống và quốc hội, đặt quốc gia trong tình trạng căng thẳng thường trực.
Những khuyết tật của chế độ tổng thống không khó nhận diện. Nhưng trước hết phải hiểu thế nào là chế độ tổng thống. Nước Đức cũng có tổng thống, nhiều quốc gia theo chế độ đại nghị cũng có tổng thống, nhưng các nước này không áp dụng chế độ tổng thống vì tổng thống chỉ có vai trò nghi lễ; quyền hành ở trong tay một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Vì thủ tướng đồng thời cũng là lãnh tụ của đảng cầm quyền, hay liên hiệp các đảng cầm quyền, nên cũng có thể bị thay thế bất cứ lúc nào do quyết định của đảng mình hay của liên hiệp đã đưa mình lên làm thủ tướng. Trong các chế độ này tổng thống không cầm quyền nên cũng không bị thay thế trong một nhiệm kỳ nhất định. Chế độ tổng thống là chế độ trong đó tổng thống do dân chúng trực tiếp bầu ra theo phổ thông đầu phiếu, đứng đầu chính phủ và cầm quyền thực sự.
Có một số chế độ tổng thống không bình thường trong đó tổng thống nắm quyền nhưng lại không được quốc dân trực tiếp bầu ra theo phổ thông đầu phiếu mà do một định chế đặc biệt. Đó là trường hợp của Nam Cao Ly dưới thời Toàn Đầu Hoán, đó cũng là trường hợp của Indonesia từ thời Suharto. Những chế độ này thường là sản phẩm của một tình trạng bất bình thường, nhằm che giấu thực chất của một chế độ độc tài cá nhân nên không thể được coi là những chế độ dân chủ. Nam Cao Ly đã bãi bỏ chế độ này và Indonesia chẳng bao lâu nữa cũng sẽ chuyển hướng về một chế độ hợp lý hơn.
Trước hết chúng ta hãy khảo sát một loại chế độ xuất hiện từ vài thập niên nay, được gọi là chế độ bán tổng thống. Khởi đầu từ Pháp, mô hình này sau đó lan ra một số quốc gia Đông Âu, Nga và Nam Cao Ly. Một số quốc gia châu Phi có lẽ do ảnh hưởng của Pháp cũng theo chế độ này. Trong các chế độ này tổng thống cũng do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhưng lại phải chia sẻ quyền hành pháp với một thủ tướng.
Nếu chúng ta có thể hiểu khá dễ dàng một chế độ tổng thống hay một chế độ đại nghị thì lại rất khó nhận diện các quan hệ quyền lực trong một chế độ bán tổng thống. Tất cả tùy thuộc ở sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và thủ tướng. Nếu thủ tướng không chịu trách nhiệm trước quốc hội mà chỉ do tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước tổng thống thì trên thực tế ông (hay bà) chỉ là một phụ tá của tổng thống, một thứ bộ trưởng thứ nhất, và lúc đó chế độ bán tổng thổng chẳng khác gì một chế độ tổng thống thuần túy bao nhiêu. Đó là trường hợp của chế độ Việt nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt nam trước đây. Ngược lại, nếu thủ tướng xuất phát từ quốc hội và chịu trách nhiệm trước quốc hội thì vai trò của thủ tướng lại có thể quan trọng hơn cả vai trò tổng thống, ít nhất trong chính sách đói nội. Giữa hai thái cực đó là vô số công thức trung gian. Chế độ hiện nay lại Nga có thể coi là chế độ ba phần tư tổng thống, chế độ tại Nam Cao Ly là hai phần ba tổng thống. Điều cần lưu ý là trong bất cứ trường hợp nào trọng lượng của tổng thống cũng rất lớn, vì lý do là ông có sự chính đáng của phổ thông đầu phiếu trực tiếp. Ông là người duy nhất trong quốc gia được toàn dân bầu ra.
Lý do ra đời của các chế độ bán tổng thống (hãy tạm gọi như thê) là một sự quân bình giữa hai ưu tư bảo đảm dân chủ và ngăn ngừa bất ổn chính trị. Người ta muốn một tổng thống vững chắc do dân chúng bầu ra với một nhiệm kỳ rõ rệt, nhưng lại sợ nếu để ông (hay bà) nắm trọn hành pháp thì sẽ dẫn tới độc tài hoặc xung đột bế tác với quốc hội. Đây là thái độ mà ta có thể gọi là bắt cá hai tay. Kinh nghiệm của các chế độ bán tổng thống đã có thể cho phép chúng ta hai nhận định.
Một là, về mặt thực tế, hậu quả đã khác với nhưng gì những người khởi xướng ra nó tưởng tượng. Các chế độ ba phần tư tổng thống! như tại Nga vẫn giữ hầu như nguyên vẹn nhưng bất lợi của một chế độ tổng thống, trong khi các chế độ thực sự bán tổng thống như tại Pháp đưa đến tình trạng ngược đời là nhân vật nhiều quyền lực nhất, nghĩa là tổng thống, lại có thể thuộc phe đối lập với tất cả những bất tiện của nó: hai vị nguyên thủ hành pháp cùng đi dự một hội nghị, những lời qua tiếng lại không ngừng trên đỉnh cao của quốc gia làm người dân mất đi sự nể trọng và tin tưởng vào nhà nước, để dọa khủng hoảng thường trực, v.v... Cũng nên nhấn mạnh một tính toán sai lầm của những người khai sinh ra chế độ bán tổng thống là việc tổng thống và thủ tướng thuộc hai đảng chống đối nhau không phải là một ngoại lệ mà đã mau chóng trở thành một thông lệ trong các chế độ bán tổng thống thực sự, như đã thấy tại Ba Lan và Pháp. Cử tri hay có thái độ công bình, đã bầu cho tổng thống thuộc phe này thì bầu cho một đa số trong quốc hội, và do đó thủ tướng, thuộc phe kia. Các nhà làm hiến pháp đã bắt cá hai tay thì có gì ngạc nhiên nếu dân chúng cùng bắt cá hai tay? Điều đáng ngạc nhiên chính là người ta đã ngạc nhiên khi tình trạng này xảy ra.
Chính trị quả thực chỉ là một khoa học thực nghiệm.
Hai là các chế độ bán tổng thống đã là hậu quả của một sai lầm về nhận thức chính trị. Lý do để bầu ra một tổng thống theo phổ thông đầu phiếu là để bảo đảm một mức độ ổn vững chính trị nào đó, tránh tình trạng chính phủ bị thay đổi liên tục bởi một quốc hội trong đó không có một đa số rõ rệt, mỗi lần các đảng phái thay đổi đồng minh là một thủ tướng và một chính phủ mới. Nhưng thực ra sự kiện một quốc hội gồm hai đảng lớn hay bị phân chia thành nhiều đảng nhỏ không phải là một hậu quả của chế độ đại nghị mà chỉ là hậu quả của thể thức đầu phiếu.
Nói chung, có hai thể thức đầu phiếu chính:
Thể thức thứ nhất là bầu đơn đanh và một vòng, trong đó cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử bầu một dân biểu và chỉ bầu một lần, người nào được số phiếu cao nhất thì đắc cử. Với lối bầu dã man này, một đảng có thể chỉ được 20% số phiếu của cử tri toàn quốc mà vẫn nắm được hai phần ba số dân biểu trong quốc hội nếu các ứng cử viên của họ về hạng nhất, thí dụ như với 20%, trong hai phần ba số đơn vị bầu cử trong khi các ứng cử viên khác chỉ được 12 % hay 15 %. Lối bầu cử này loại bỏ các đảng nhỏ và nâng đỡ các đảng lớn. Nó đặt các đảng nhỏ trước một chọn lựa: hoặc kết hợp lại với nhau thành một đang lớn, hoặc bị gạt ra ngoài lề; nó dần dần đưa tới chế độ lưỡng đảng
Thể thức thứ hai là bầu theo tỷ lệ. Theo lối đầu phiếu này, cử tri toàn quốc, hay trong mỗi vùng lớn, sẽ bầu cho các liên danh do các chính đảng đưa ra. Sau cuộc bầu cử, mỗi liên danh sẽ được một sổ dân biểu theo tỷ lệ, thí dụ một liên danh được 25 % số phiếu thì được 25 % tổng số dân biểu, hay hơn một chút bởi vì thường thường người ta hay qui định một tỷ lệ lối thiểu của số phiếu đạt được, thí dụ 5%, để được chia ghế; các chính đảng không được 5% tổng số phiếu của cử tri không được chia phần, số ghế dân biểu đáng lẽ về phần họ được đem chia cho các đảng vượt được tỷ lệ 5%. Lối bầu phiếu này rất dân chủ vì nó cho phép mọi khuynh hướng chính trị có chút tầm vóc được hiện diện trong quốc hội, và do đó được tham dự thảo luận về các chọn lựa lớn của nhà nước. Ngược lại, nó thường đưa đến tìhh trạng khó khăn là quốc hội bị chia vụn thành nhiều đảng nhỏ, không đảng nào nắm được đa số và do đó thủ tướng có thể bị thay đổi thường xuyên nếu do quốc hội chỉ định và chịu trách nhiệm trước quốc hội, như trong các chế độ đại nghị. Như vậy nếu muốn tránh tình trạng bất ổn do một quốc hội bị chia vụn thì người ta chỉ cần chấp nhận lối đầu phiếu đơn danh và một vòng là xong, không cần phải phát minh ra một chế độ bán tổng thống, hai phần ba tổng thống hay ba phần tư tổng thống. Tóm lại, cả lý do khiến các chế độ gọi là bán tổng thống được phát minh ra lẫn những hậu quả mà người ta dự đoán chúng sẽ đem lại đều là những sai lầm. Sai lầm về phân tích chính trị hoặc sai lầm về tiên liệu phản ứng của cử tri. Nói như thế không có nghĩa là tôi đề nghị gạt bỏ chế độ bán tổng thống một cách không thương tiếc. ít nhất nó cũng sửa chữa được phần nào những xơ cứng của chế độ tổng thống. Nó có thể là một giải pháp trấn an cho chúng ta sau này nếu do lo âu và lương tự - không đúng nhưng khó trút bỏ - chúng ta chưa dám chọn lựa dứt khoát chế độ đại nghị. Bây giờ trở về với chế độ tổng thống. Những bất lợi và nguy cơ của chế độ tổng thống không khó nhìn thấy.
Trước hết, nó dành quá nhiều quyền cho một người không thể bị thay đổi trong một thời gian dài, ít nhất cũng bốn năm. Tỏng thống có thể dùng quyền lực này mà bất chấp cả quốc hội. Nếu trong thời gian này tổng thống làm toàn sai lầm, hoặc vi phạm luật pháp thì sao? Hậu quả là đất nước bị lâm vào tình trạng bệnh hoạn vô phương cứu chữa trong suốt nhiệm kỳ, hoặc sẽ phải trải qua một cuộc khủng hoảng lớn trước khi hạ bệ được tổng thống. Điều mà người ta nghĩ là một ưu điểm của ché độ tổng thống - sự kiện nguyên thủ hành pháp không thể bị thay đổi trong một nhiệm kỳ - thực ra là một mối nguy. Chế độ tổng thống cũng chờ đợi quá nhiều đức tính và khả năng ở một người trong khi không ai có thể hoàn hảo, hơn nữa ai cũng có thể bị sút giảm sức khỏe và khả năng một cách bất ngờ.
Nhưng còn một hậu quả nghiêm trọng hơn là chế độ có thể trở thành độc tài. Tâm lý tại các nước thiếu mở mang là hay bầu lại cho người cầm quyền trừ khi ông ta quá tồi dở. Một tổng thống mị dân có thể mê hoặc cử tri để trở thành một thứ thần tượng rồi không những tái đắc cử mà còn đem cả tay chân và thủ hạ vào quốc hội, sửa đổi hiến pháp, ban hành tình trạng khẩn cấp, v.v... Để kéo dài thời gian cầm quyền. Đó là tình trạng đã xảy ra ở hầu hết các nước mới được độc lập. Đó đã là trường hợp của mọi nước châu Mỹ La Tinh, trừ Chile, trong một thế kỷ rưỡi từ giữa thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20.
Và nếu tổng thống xung đột với quốc hội? Nhà nước sẽ chỉ được quản lý theo lối xử lý thường vụ; luật quốc hội biểu quyết tổng thống không ban hành, các đề nghị của tổng thống quốc hội không chấp nhận. Đất nước sẽ dẫm chân tại chỗ trong khi bối cảnh quốc gia và quốc tế thay dỗi. Guồng máy nhà nước cũng có thể bị ngừng trệ vì ngân sách không được biểu quyết hoặc tháo khoán. Cách bầu cử tổng thống qua phổ thông đầu phiếu tự nó đã không đứng đắn.
Cuộc bầu cử một người trên một nước lớn đòi hỏi những chi phí rất quan trọng cho ứng cử viên, do đó chỉ có những người rất giàu hoặc được sự hỗ trợ của những thế lực tài phiệt lớn mới có thể tranh cử. Như vậy bằng cách này hay cách khác quyền lãnh đạo chính trị sẽ luôn luôn thuộc về người giàu có chứ không phải thuộc về người thực sự có trí tuệ và khả năng.
Lối bầu cử tổng thống là bầu cho một người trước khi bầu cho một dự án chính trị. Tổng thống có thể được bầu vì những lý do không liên hệ gì với khả năng chính trị: con cháu một vĩ nhân, đẹp trai, ăn ảnh, vợ đẹp, nói chuyện duyên đáng, v.v... làm mất sự nghiêm trang của sinh hoạt quốc gia. Cử tri có thể bầu cho một ứng cử viên như thế, nhưng sau đó lại nhàm chán với sinh hoạt chính trị. Lô-gích của một cuộc bầu cử tổng thống là được ăn cả ngã về không cho nên các cuộc bầu cử tổng thống thường rất gay gắt và gây chia rẽ trầm trọng, nhất là trong một quốc gia đang bị đặt trước những chọn lựa khó khăn. Mỗi cuộc thay đổi tổng thống đều tương tự như một cuộc cách mạng với những người rất vui mừng và những người rất tức giận.
Hậu quả của chế độ tổng thống cũng là làm tan vỡ các đảng phái chính trị. Tình trạng này có hai lý do. Một là vì sự được hay thua dựa trên một người nên nhu cầu là có được một ê-kíp quảng cáo chính trị tốt chứ không phải một bộ tham mưu chính trị giỏi, vấn đề là làm thế nào để đánh bóng được ứng cử viên của mình để giành được chức tổng thống trước khi cần những nhà chiến lược lớn. Hai là vì chức vụ tổng thống là tất cả cho nên những nhân vật lớn trong cùng một đang không thể thỏa hiệp với nhau. Hai nhân vật ngang tam cỡ với nhau không thể thỏa hiệp để người có hy vọng hơn ra ứng cử, bởi vì không có sự qua lại, phải nhượng bộ tất cả hoặc không nhượng bộ gì hết. Các quốc gia theo chế độ tổng thống vì vậy thường không thể có các chính đảng lớn như tại các quốc gia theo chế độ đại nghị. Sự kiện thiếu vắng các chính đảng lớn là một bất lợi trầm trọng cho quốc gia. Các chính đảng lớn vừa là lò đào tạo ra các nhà lãnh đạo vừa là nơi mỏ xẻ và trao đổi những ý kiến về những chọn lựa quan trọng đặt ra cho đất nước. Hơn nữa, các nước theo chế độ tổng thống không phải chỉ thiếu chính đảng lớn mà còn thiếu chính đảng đúng nghĩa. Vì tất cả quyền hành tập trung vào tổng thống nên vị tổng thống nào cũng lôi kéo được sự hùa theo của một số đông đảo những phần tử cơ hội chủ nghĩa và vụ lợi: Tỏng thống luôn luôn có một đảng rất lớn nhưng thường không có phẩm chất, bởi vì phần lớn là những phần tử xu nịnh.
Tôi sống tại Pháp và đã theo dõi năm cuộc bầu cử tổng thống. Mỗi cuộc bầu cử là mỗi lần dân Pháp bị chia làm hai phe. Kết quả vừa được công bố thì lập tức hàng trăm nghìn người xuống đường đốt pháo bông, bóp kèn, nhảy múa và gào hét On a gagné? (Ta đã thắng!) trong khi những người thuộc phe thua thì lòng đau như cắt. Mỗi lần bầu cử tổng thống là mỗi lần nội bộ các đảng lớn khủng hoảng trầm trọng. Trong đảng xã hội, tổng thống Mitterrand và nhân vật uy tín thứ hai là Michel Rocard trở thành những kẻ thù, không phải chỉ suốt đời mà cả sau khi ông Mitlerrand đã chết. Đảng Xã Hội hầu như tan rã sau lần bầu cử tổng thống thứ hai. Bên cánh hữu thì Tập Hợp Cộng Hòa, đảng lớn nhất cũng tan rã dần sau cuộc bầu cử tổng thống. Đôi bạn ba mươi năm Chirac và Balladur đã trở thành những đối thủ không thể nhìn mặt nhau, sau khi cả hai đều ra ứng cử tổng thống dù thuộc cùng một đảng. Nguyên nhân lúc nào cũng giống nhau: người ta không thể thỏa hiệp, bởi vì chức vụ tổng thống là tất cả. Hậu quả tai hại như vậy dù Pháp mới chỉ là một nước theo chế độ bán tổng thống, trong đó hiến pháp dành cho thủ tướng toàn quyền trong các vấn đề kinh tế xã hội.
Bây giờ, hãy nhìn ngay vào trường hợp Hoa Kỳ, quốc gia duy nhất mà chế độ tổng thống có thể coi là thành công. Sự thành công này có một giải thích: Hoa
Kỳ không giống bất cứ một quốc gia nào khác trên thế giới.
Quốc gia này đã được thành lập sau khi xã hội dân sự đã trở thành mạnh mẽ, từ đó xã hội dân sự luôn luôn nắm vai trò chủ động, nhà nước Hoa Kỳ luôn luôn là một nhà nước nhẹ tới mức tối thiểu. Trong tác phẩm để đời của ông về Nền Dân Chủ Mỹ (De la Démocratie en Amérique) viết năm 1830, Alexis de Tocqueville kể lại rằng ông tìm gặp một thị trưởng một thành phố khá lớn tại Mỹ và thấy một người rất tầm thường đang loay hoay sửa mái nhà, qua câu chuyện ông thấy vị thị trưởng chỉ có một trình độ hiểu biết rất giới hạn. Tocqueville nhận ra là tại Mỹ những người thông minh và tài giỏi đều lao vào kinh doanh làm giàu, chỉ những người trung bình mới tham gia vào chính quyền. Chính quyền vì vậy luôn luôn trọng nể xã hội dân sự và tự cho mình sứ mạng là phục vụ xã hội dân sự và tạo điều kiện để xã hội dân sự có thể hoạt động lành mạnh. Nền tảng của nước Mỹ là xã hội dân sự. Không những thế Hoa Kỳ lại theo chế độ liên bang tản quyền tối đa, vai trò của nhà nước trung ương lại càng bị giảm thiểu. Trong phần thảo luận về dân chủ, chúng ta đã nói tự do mới là cứu cánh của chính trị, ưu tư đầu tiên phải là giảm thiểu vai trò của chính quyền để nhường chỗ tối đa cho cá nhân và xã hội dân sự. Hoa Kỳ là bằng chứng rằng một chính quyền dở mà nhẹ vẫn hơn một chính quyền tốt nhưng kềnh càng. Một nét đặc thù khác của nước Mỹ là ngay từ ngày lập quốc nó đã có một đồng thuận rất mạnh trên một triết lý chính trị, triết lý chính trị đó là chủ nghĩa cá nhân tự do. Vì vậy mà Hoa Kỳ không có những cuộc tranh luận chính trị lớn. Các issues của những cuộc bầu cử chỉ là những vấn đề nhỏ: có nên hạn chế quyền phá thai không, có cho phép cầu nguyện trong trường học không, ủng hộ hay không ủng hộ án tử hình, hay cùng lắm là tăng hay giảm 0,5 % thuế, v.v... Trường hợp Hoa Kỳ vì vậy không thể nới rộng cho các quốc gia đang bị đặt trước những chọn lựa quan trọng. Các nước khác bắt chước chế độ tổng thống của Hoa Kỳ đã chỉ tiến dần về độc tài và bế tắc.
Tuy vậy, chế độ tổng thống cũng đã gây những khó khăn đáng kể cho Hoa Kỳ, một tổng thống kém cỏi như Harding đã có thể tiếp tục trong sự sai lầm, góp phần quyết định đưa cả Hoa Kỳ và thế giới vào cuộc khủng hoảng bị đát 1929. Chính cuộc khủng hoảng này đã giúp cho các đảng phát-xít lên cầm quyền tại ý và Đức, đưa đền thế chiến; nó cũng đã cũng cấp lập luận cho chế độ cộng sản Liên xô và nhiều chế độ độc tài khác để bài bác dân chủ. Một thí dụ gần đây hơn là vụ tai tiếng của Bill Clinton và Monica Lewinski, gây chia rẽ và bối rối vô ích cho nước Mỹ trong hơn một năm trời. Nếu Clinton chỉ là một thủ tướng, ông đã có thể từ chức một cách êm thấm. Hoa Kỳ đã thành công với chế độ tổng thống nhờ một xã hội dân sự mạnh, tổ chức liên bang, chính quyền nhẹ và đồng thuận cao, nhưng chắc chắn Hoa Kỳ sẽ thành công hơn nhiều nếu theo chế độ đại nghị.
Cần lưu ý là vào lúc lập quốc, chính quyền liên bang Hoa Kỳ chỉ có một nhiệm vụ chính là đảm bảo quốc phòng. Dần dần với vai trò ngày càng lớn trên thế giới và với các vấn đề ngày càng phức lạp chính quyền liên bang đã trở thành một chính quyền thực sự, nhưng đồng thời chế độ Hoa Kỳ cũng chuyển biến từ từ tới gần một chế độ đại nghị.
Tại Pháp, do sự phá sản của lối đầu phiếu theo tỷ lệ được đổ lỗi oan cho chế độ đại nghị và do uy tín áp đảo của tướng De Gaulle, chế độ bán tổng thống đã được thành lập, nhưng càng ngày càng có những tiếng nói có thẩm quyền cất lên đòi chuyển hóa về chế độ đại nghị. Maurice Druon, cựu bộ trưởng của De Gaulle và viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp, đánh giá chế độ tổng thống là một sai lầm vĩ đại của De Gaulle.
Thực ra chế độ tổng thống là gì? Nó là một cải tiến của chế độ quân chủ tuyệt đối theo hai hướng: một là vua được bầu là do phổ thông đầu phiếu thay vì lên ngôi theo cha truyền con nối và được gọi là tổng thống; hai là quyền hạn của tổng thống được qui định theo hiến pháp. Tóm lại, chế độ tổng thống là một bước tiến do dự từ chế độ quân chủ sang dân chủ. Nói khác đi, nó phản ánh một lấn cấn tiếc nuối đối với những chế độ mệnh danh là độc tài sáng suốt. Nguyễn Ngọc Huy đã bày tỏ tâm lý này trong cuốn Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn. Ông giải thích rằng trước đây đảng Đại Việt chọn chế độ độc tài và theo lãnh tụ chế vì vào lúc đảng Đại Việt được thành lập các chế độ độc tài đang thịnh hành; sau đó vì các chế độ độc tài không còn được nhìn nhận, đảng Đại Việt đã chuyên sang chế độ tổng thống vì nghĩ rằng chế độ này giữ được những ưu điểm của chế độ độc tài dù vẫn dân chủ. Ngày nay thực tế đã chứng minh rõ ràng rằng không làm gì có những ưu điểm của chế độ độc tài cả, các chế độ độc tài sáng suốt chỉ là một huyền thoại, mọi chế độc tài đều tồi tệ. Chỉ còn một chọn lựa dứt khoát là dân chủ. Chế độ dân chủ nhất là chế độ đại nghị, trong đó quyền hành thuộc về một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội.
Trong chế độ đại nghị, người dân bầu một cách đúng đắn hơn hẳn, họ bầu cho một dự án chính trị thay vì cho một người, và họ cũng bầu cho hàng trăm dân biểu cùng một lúc. Cử tri mỗi đơn vị có phương tiện để tiếp xúc và tìm hiểu các ứng cử viên để có thể bầu với sự hiểu biết. Rủi ro sai lầm giảm đi, và sai lầm nếu có cũng không trầm trọng vì họ chỉ bầu một trong số bốn, năm trăm dân biểu. Vị thủ tướng có thể bị quốc hội thay đổi bất cứ lúc nào và phải luôn luận chứng tỏ khả năng của mình trước một hội đồng giám khảo có bản lãnh. Do đó thủ tướng vừa phải có thực tài vừa phải hết sức thận trọng. Sự thay đối thủ tướng, nếu cần, cũng không gây ra khủng hoảng lớn. Các chính đảng cũng hoạt động nghiêm túc và hài hòa hơn, hai nhân vật ngang tầm cỡ trong cùng một đảng cũng có thể dễ dàng thoả hiệp với nhau hơn, để một người làm lãnh tụ và trở thành thủ tướng nếu đảng thắng cử, bởi vì chức thủ tướng không phải là tất cả, thủ tướng chỉ là người thứ nhất trong số những người ngang nhau trong một chính phủ.
Chế độ thủ tướng chắc chắn hơn hẳn chế độ tổng thống, với điều kiện là nó vừa bảo đảm được một mức độ ổn vững tương đối vừa bảo đảm được tiếng nói của mọi khuynh hướng trong các cuộc tranh luận trên những vấn đề lớn của đất nước. Đó là một bài toán có lời giải. Chúng ta đã biết là lối đầu phiếu đơn danh và một vòng đưa tới một quốc hội với hai đảng lớn. Mặt khác chúng ta cũng biết rằng lối đầu phiếu theo tỷ lệ đảm bảo tiếng nói trong quốc hội cho mọi khuynh hướng.
Như vậy giải pháp tói ưu là một thề chế đại nghị tản quyền với một quốc hội trong đó 90% dân biểu được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, và 10% còn lại được bầu theo tỷ lệ. Số 90% bầu theo thề thực đơn danh bảo đảm sự hiện diện của một đa số trong quốc hội và do đó sự ổn vựng của chính quyền, trong khi số 10% bầu theo tỷ lệ có hai mục đích, một là bảo đảm cho mọi khuynh hướng được có tiếng nói, hai là cho phép những người lãnh đạo các chính đảng khỏi phải lo tranh cử tại các địa phương và tập trung cố gắng vào những vấn đề quốc gia. Giải pháp này đã được dưa ra trong Dự án chính trị dân chủ đa nguyên 1996 của nhóm Thông Luận. Gần đây, Guy Carcassonne, chuyên gia có uy tín về các định chế chính trị lại Pháp, phản ánh những trao đổi của các chuyên gia lớn trên thế giới về hiến pháp, cũng đi tới cùng một đề nghị.
Người Việt nam chúng ta sở dĩ coi chế độ tổng thống là tự nhiên vì đó là chế độ không cộng sản duy nhất mà đại đa số chúng ta biết tới. ở miền Nam Việt nam trước đây đã chỉ có chế độ tổng thống. Sau này hai cộng đồng người Việt hải ngoại lớn nhất là tại Mỹ và Pháp, cả hai nước này đều theo chế độ tổng thống. Từ đó chúng ta tiêm nhiễm một thứ phản xạ tổng thống. Nhưng có những phản xạ rất có hại, cũng như có những thành kiến cần phải từ bỏ.
Chuyện của các luật sư
Nước ta chỉ mới tạm gọi là giành được độc lập từ sau thế chiến II, mà đã có khá nhiều hiến pháp. Phe cộng sản có bốn hiến pháp: hiến pháp 1946, hiến pháp 1959, hiến pháp 1980 và hiến pháp 1992. Phe quốc gia dù chỉ tồn tại chưa đầy 30 năm cũng đã có hai bản hiến pháp 1956 và 1967. Đó là chưa kể những bản tuyên ngôn, hiến ước, hiến chương được dùng như những hiến pháp tạm thời. Nếu so với nhau quốc gia khác như Mỹ chỉ có một hiến pháp từ thời lập quốc, Đức và Nhật chỉ có một hiến pháp từ 1945, hoặc Anh chẳng có một hiến pháp thành văn nào thì chúng ta quả là giữ một kỷ lục về số lượng hiến pháp. Thể thực, tôi không biết có một dân tộc nào trên thế giới có một lượng hiến pháp bằng nước ta trong cùng một giai đoạn không. Tôi chắc là không. Tuy vậy số lượng hiến pháp không hề chứng tỏ người Việt nam chúng ta trăn trở về hiến pháp, luôn luôn dằn vặt suy nghĩ tìm cách thay đổi cho phù hợp hơn, trái lại nó còn chứng tỏ người Việt nam không có một quan điểm đúng đắn về hiến pháp. Đặc tính chung của tất cả mọi bản hiến pháp đã có là chúng đều đã được soạn thảo một cách vội vã và kín đáo, được thông qua hầu như không tranh cãi và được ban hành trước sự dửng dưng của dân chúng. Đảng cộng sản hiển nhiên là coi hiến pháp là của người cầm quyền. Hiến pháp là văn kiện tổ chức nhà nước, mà nhà nước theo triết học Mác-Lênin chỉ giản dị là công cụ đàn áp của kẻ thống ưị. Lời nói đầu của hiến pháp 1992 gồm 530 chữ trong đó có 53 chữ, nghĩa là đúng 10%, được dành cho hơn bốn ngàn năm lịch sử của Việt nam, phần còn lại chỉ nói về đảng cộng sản. Chưa đủ, lời nói đầu, phần long trọng nhất của hiến pháp, còn qui chiếu về cương lình chính trị của đại hội lần thứ sáu của đảng cộng sản, một văn kiện chỉ có giá trị giai đoạn ngay cả với đảng cộng sản. Bản chất của hiến pháp như là một công cụ đàn áp được thể hiện rõ ràng qua nhưng điều đầy tính hăm dọa, thí dụ như điều 13.
Thế còn những người Việt nam nói chung? Phần đông chúng ta cũng có một quan niệm rất sai lầm về hiến pháp. Hình như đối với chúng ta hiến pháp chỉ là một văn kiện tổ chức chính quyền có tính chuyên môn và thuộc thẩm quyền của các luật sư. Ngược lại, phần lớn các luật sư cũng tự coi là có thẩm quyền để nói về hiến pháp hơn người khác, mà không hiểu tại sao..
Trí thức trung niên và cao niên của ta thừa hưởng văn hóa Pháp, từ đó, một cách phiến diện, coi hiến pháp nằm trong phạm vi luật học, một lẫn lộn mà chính các học giả Pháp cũng đã nhìn nhận. Thực ra hiến pháp tuy là luật căn bản của quốc gia và là cội nguồn của luật pháp nhưng không nằm trong phạm vi luật học mà thuộc phạm vi văn hóa, chính trị và xã hội. Một luật sư dù có khả năng biện hộ tài tình những vụ kiện cáo nhà đất và ly dị vẫn có thể không có tư cách gì để bàn về hiến pháp. Luật phải qui chiếu vào hiến pháp nhưng hiến pháp không thuộc phạm vi của luật học. Các chuyên gia về hiến pháp của Pháp cũng đã nhận ra sự mập mờ của cụm từ droit constitutionnel được dịch sang tiếng việt là luật hiếnpháp và càng ngày càng dùng cụm từ định chế chính trị (institutions politiques) nhiều hơn. Cụm từ này tuy đúng nghĩa hơn nhiều, nhưng cùng chưa đúng hẳn.
Vậy thì hiến pháp là gì?
Nó đúng là văn kiện qui định những định chế chính trị, nhưng đồng thời nó cũng đặt nguyên tắc, nếu không qui định một cách rõ rệt, cho tương quan giữa các thành tố của xã hội, cũng như cho nhiều định chế văn hóa, xã hội khác cần thiết cho sự sống và tiến hóa của cộng đồng quốc gia. Như vậy, muốn nói tới hiến pháp, trước hết phải có một quan niệm về quốc gia đã. Trong một bài trước chúng ta nhận định quốc gia như không gian liên đới của một dân tộc để cho phép họ sống chung và xây dựng với nhau một tương lai chung. Như vậy hiến pháp phải là một thỏa ước về một hiện tại và một tương lai. Trong hiện tại chúng ta đang thừa hưởng di sản nào, đang có những vấn đề nào và phải tổ chức cộng đồng quốc gia như thế nào cho phù hợp? Chúng ta đang đứng trước những nguy cơ nào và phải tổ chức như thể nào để ngăn ngừa? Và với tất cả khả năng và tiềm năng của chúng ta, chúng ta muốn một tương lai như thế nào và phải tổ chức cố gắng chung như thế nào để đạt tới? Tất cả những câu hỏi đó hiến pháp phải trả lời và những người có thẩm quyền để đề nghị những câu trả lời là những người đã trải qua nhiều trăn trở và suy tư về đất nước và có đủ sự hiểu biết để có thể đưa ra những kết luận. Đó là những nhà chính trị, những nhà xã hội học, nhưng nhà tư tưởng với những đóng góp của các chuyên gia mọi ngành, trong đó luật học chỉ là một.
Vì là một qui ước sống chung và làm việc chung, hiến pháp phải có sức thuyết phục, nghĩa là vừa phải hợp lý vừa phải hợp tình để được mọi người, ngay cả những người không đồng ý, nhìn nhận tính chính đáng, lương thiện và thành khẩn. Nó cũng phải có khả năng động viên và thôi thúc, nghĩa là cũng phải có giá trị của một lời kêu gọi.
Hiến pháp có thực sự cần thiết không?
Câu hỏi có vẻ khiêu khích nhưng câu trả lời là không. Vai trò của nó là phát biểu một đồng thuận sống chung và theo đuổi những mục đích chung, nếu đồng thuận đã rõ ràng thì hiến pháp không cần thiết, quốc gia có thể sinh hoạt chỉ bằng những đạo luật đặc biệt. Nước Anh không có hiến pháp mà vẫn là một quốc gia rất phồn vinh. Không cần thiết trên nguyên tắc nhưng hiến pháp có lợi về mặt thực tiễn bởi vì nó vạch ra một tinh thần chỉ đạo cho các đạo luật. Trong trường hợp Việt nam, giữa lúc lòng người hoang mang và phân tán, chúng ta cần một hiến pháp để làm một căn bản đồng thuận, nhưng với điều kiện là hiến pháp đó thực sự là kết quả của một cố gắng tìm đồng thuận dân tộc.
Hiến pháp có cần ổn vững không?
Câu trả lời là chắc chắn cần. Thay đổi hiến pháp là thay đổi luật chơi cơ bản nhất của xã hội, có thể gây xáo trộn trong sinh hoạt quốc gia và làm đổ vỡ nhiều dự án. Kinh nghiệm đã cho thấy một hiến pháp dân chủ ổn vững là điều kiện không có không được cho phát triển, bởi vì có như thế người dân mới yên tâm làm những dự định cho tương lai. Cần nhấn mạnh cụm từ hiến pháp dân chủ ổn vững bởi vì nếu hiến pháp chỉ là sự áp đặt của kẻ thắng, nhất là lại chứa đựng những qui định khiêu khích thì, ngược lại, càng kéo dài bao lâu nó càng gây tác hại và làm rạn nứt dân tộc bấy nhiêu. Sự ổn vững của hiến pháp rất cần thiết, cho nên ưu tư lớn nhất của người soạn thảo hiến pháp phải là làm thế nào để nếu một lực lượng khác lên cầm quyền họ cũng không có lý do để đổi hiến pháp. Việc một lực lượng chính trị cầm quyền áp đặt hiến pháp theo ý mình vừa là một thái độ xấc xược vừa chứng tỏ sự thấp kém của những người không có tham vọng để lại dấu ấn lâu dài. Quan sát các quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể thấy là hầu như có một định luật là các nước càng ít thay đổi hiến pháp thì càng phát triển, càng nhiều hiến pháp bao nhiêu thì càng trì trệ bấy nhiêu. Sự phồn vinh tỷ lệ nghịch với số lượng hiến pháp được ban hành.
Nhưng ổn vững không có nghĩa là bất động. Hiến pháp phải đáp ứng những yêu cầu lớn của giai đoạn và do đó cũng phải có khả năng thích nghi với thời đại. Không nên tu chỉnh hiến pháp một cách tùy tiện, nhưng ngược lại cũng không nên khóa chặt cánh cửa đối với những tu chỉnh cần thiết, và càng không nên đưa vào hiến pháp những gì chỉ có giá trị nhất thời và vì thế có thể qui định bằng một đạo luật thường. Một trường hợp điển hình là hiến pháp Bồ Đào Nha (Portugal) ban hành năm 1976. Vào lúc đó Portugal vừa trải qua ba mươi năm dưới chế đô độc tài Salazar, quan tâm chính của các nhà lập pháp Portugal là làm thế nào ngăn chặn mọi khả năng trở lại của một chế độ độc tài. Họ đã chọn chế độ đại nghị, đó là một chọn lựa đúng. Họ cũng chọn cách bầu cử quốc hội theo lối bầu tỷ lệ. Quả nhiên lối bầu theo tỷ lệ là thể thức bầu cử dân chủ và đa nguyên nhất. Nhưng họ đã làm một sai lầm lớn do nhiệt tình quá đáng là ghi ngay vào hiến pháp một điều khoản cấm thay đổi cách đầu phiếu này (và dĩ nhiên cả điều khoản cấm thay đổi). Ngày nay chính giới Portugal nhận ra sự bất lợi của lối bầu cử theo tỷ lệ nhưng không thay đổi được. Nước Portugal vì vậy luôn luôn bị đặt trước nguy cơ là không có nổi một đa số gắn bó trong quốc hội, và do đó một chính phủ đủ vững mạnh, để lấy những quyết định quan trọng.
Hiến pháp có phải là đặc biệt cho một quốc gia không?
Câu trả lời là vừa có vừa không.
Có, bởi vì mỗi dân tộc có một di sản văn hóa riêng với những cái hay và những cái dở và một lịch sử riêng với những yếu tố tích cực và những yếu tố tiêu cực. Do đó mỗi dân tộc có những vấn đề trọng đại riêng phải giải quyết. Hiến pháp phản ánh đặc thù dân tộc. Không, bởi vì quốc gia nào cũng phải hội nhập vào đà tiến chung của thế giới và vì thế không thể phủ nhận luật pháp quốc tế và các giá trị phổ cập của loài người. Nhiều quốc gia đã long trọng xác nhận bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và các công ước đính kèm như là thành phần của hiến pháp của mình. Đó là một chọn lựa rất đúng đắn.
Chúng ta có cần một hiến pháp mới cho Việt nam không? Câu trả lời không hiển nhiên như nhiều người có thể nghĩ. Cho tới nay có một sự kiện khá ngộ nghĩnh. Phần lớn các thành phần đối lập, kể cả các tổ chức chống cộng hải ngoại từng chủ trương kháng chiến võ trang, đều lên tiếng đòi bỏ điều 4 (điều qui định đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo xã hội và nhà nước). Chỉ có thể thôi sao? Thế còn điều 9, điều 13, điều 30, điều 45, v.v...? Và còn danh xưng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam? Và lời nói đầu dành 90% để nói về công đức của đảng cộng sản? Chỉ đòi bỏ điều 4 là một thái độ quá khiêm tốn, ngay cả cho một giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ vì còn rất nhiều điều khoản khác cũng quá khích không kém và nếu được duy trì sẽ có thể bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa. Thí dụ như điêu 45 qui định quân đội phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Quí vị trong một chính phủ chuyển tiếp (giả thử như sẽ có) phải coi chừng, quí vị có thể bị quân đội đảo chính một cách rất hợp hiến? Sự kiện điệp khúc bỏ điều 4 được lặp đi lặp lại trong các nghị quyết, kháng thư, tuyên ngôn... chứng tỏ phần lớn các tổ chức không quan tâm đến hiến pháp và không đọc hiến pháp, như đại đa số người Việt nam từ trước đến nay.
Để chuyển hóa về dân chủ thì ngay giai đoạn chuyển tiếp, không phải chỉ một điều 4, mà còn nhiều điều khác cần được vô hiệu hóa. Công việc sẽ quá phức tạp vì phải rà soát lại toàn bộ hiến pháp? Không hẳn như vậy, chúng ta có thể chỉ cần một nghị quyết, do quốc hội đương hành biểu quyết hoặc do một trưng cầu dân ý, tuyên bố vô hiểu hóa mọi qui chiếu của hiến pháp về bất cứ một tổ chức, một chủ nghĩa hay một nhân vật nào. Tất cả vấn đề là thiện chí, nếu thực sự có ý chí dân chủ hóa thì không có vấn đề nào không giải quyết được
Rồi sau đó? Chúng ta có thể đồng ý soạn thảo lại một bản hiến pháp mới hoặc sửa đổi hiến pháp hiện thời. Nhưng dù chọn giải pháp tu chính đi nữa thì cũng phải thay lời nói đầu, sửa đổi các điều khoản nói về đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin, Mặt Trận Tổ Quốc, Đoàn thanh Niên Cộng sản, và nhiều điều khoản về tổ chức nhà nước, v.v... Nói khác đi, dù là tu chính đi nữa, trên thực tế vẫn là một hiến pháp hoàn toàn mới về nội dung. Chúng ta sẽ cho hiến pháp này nội dung nào?
Như đã nói, hiến pháp phải đáp ứng những đòi hỏi trọng đại của hiện tại và cũng phải phù hợp với xã hội tương lai mà chúng ta muốn đạt tới. Trong hiện tại (hiện tại có nghĩa là khi chế độ dân chủ chính thức được thành lập), ba ưu tư chính của chúng ta là bảo đảm một bối cảnh chính trị ổn vững, ngăn chặn sự trở lại của một chế độ độc tài dưới bất cứ hình thức nào và thực hiện hòa giải dân tộc. Trong tương lai, chúng ta muốn một nước Việt nam hội nhập vào đà tiến chung của thế giới, một nước Việt nam phát triển nhanh để bắt kịp sự chậm trễ so với các nước khác, một nước Việt nam ngày càng thống nhất trong lòng người, một nước Việt nam tản quyền để cho phép mỗi vùng được quản lý một cách phù hợp với điều kiện riêng của mình và phất huy được tối đa các ưu điểm của mình. Chúng ta cũng muốn một xã hội đa nguyên trong đó mọi sắc tộc và mọi tín ngưỡng được thỏa mãn những khát vọng chính đáng. Nếu nhưng mục tiêu trên được chấp nhận thì một cách thực tế hiến pháp tương lai có thể gồm:
1. Môt lời nói đầu, được coi là có giá trị pháp lý cao nhất, trong đó các mục tiêu trên được nêu ra, với ít nhất những khẳng định sau đây:
─ Việt nam coi bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và mọi công ước liên hệ, cùng với những tu chính sau này của chúng, là thành phần tạo thành và khăng khít của hiến pháp Việt nam (khẳng định này nhắm mục đích cho phép Việt nam đi cùng nhịp với tiến bộ của thế giới).
─ Trong nước Việt nam không có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không cố những đề tài cấm bàn đến (khẳng định này lấy tự do và sáng kiến làm sức mạnh dựng nước).
─ Xã hội Việt nam được xây dựng trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc (hòa giải và hòa hợp không những là nhu cầu cấp bách của đất nước hiện nay mà còn là một triết lý chính trị mới trên thế giới).
2. Các điều khoản về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Các điều khoản này không cần đi vào chi tiết vì những quyền công dân phần lớn đã nằm trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế nhân Quyền và các công ước liên hệ, mặt khác nên theo tinh thần thực nghiệm, nghĩa là bổ túc dần dần hiến pháp, biến hiến pháp thành một suy tư thường trực trong quốc gia.
3. Các điều khoản về tổ chức nhà nước, trong đó qui định:
─ Lãnh thổ Việt nam thống nhất trong sự kết hợp các vùng. Chính quyền trung ương giữ độc quyền về quốc phòng, ngoại giao và tiền tệ. Mỗi vùng được có chính quyền riêng do dân chúng bầu ra. Các chính quyền vùng không được có quân đội và tiền tệ riêng, không được ký kết những hiệp ước với nước ngoài và với các vùng khác, không được làm chủ các cơ sở có mục đích kinh doanh. Chi tiết về biên giới các vùng và cách tổ chức chính quyền vùng sẽ do một đạo luật riêng do quốc hội biểu quyết.
─ Chính quyền trung ương gồm một quốc hội trong đó không dưới 80% đại biểu được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, phần còn lại bầu theo tỷ lệ, một thượng viện mà vai trò chính là đại diên cho các vùng, trong đó mỗi vùng có một số thượng nghị sĩ bằng nhau; một tổng thống, hay chủ tịch nước, do quốc hội và thượng viện bầu ra với vai trò chủ trì những nghi lễ và bảo đảm sự liên lục, ổn vững và đoàn kết quốc gia; một chính phủ gồm một thủ tướng do quốc hội bầu ra và những bộ trưởng do thủ tướng chỉ định; và một tòa án tối cao có quyền phán quyết tính hợp hiến của các đạo luật do quốc hội biểu quyết và các nghị định của chính phủ, trọng tài các tranh tụng giữa những cơ quan quyền lực, xét xử các cấp lãnh đạo cấp cao, và xét lại các phán quyết của các tòa án trung ương cũng như địa phương.
Mỗi vùng sẽ có một nghị viện riêng và một chính quyền vùng do nghị viên vùng bầu ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.
─ Các chính đảng được nhìn nhận là có vai trò quan trọng trong sinh hoạt quốc gia và được tài trợ theo luật pháp.
4. Một số điều khoản đặc biệt có mục đích nhấn mạnh mục tiêu dài hạn của quốc gia để thu hút sự chú ý của dân chúng, thí dụ như qui định chức năng của Việt nam là một nước thương mại, công nghiệp và du lịch; Việt nam vận động mọi cố gắng để chung sống trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với các quốc gia khác, đóng góp cũng cố hòa bình trong vùng và trên thế giới; trách nhiệm đặc biệt trọng đại của mọi công dân Việt nam là gìn giữ và không ngừng cải thiện môi trường sinh sống, không khí, cây rừng, bờ biển, lãnh hải và thềm lục địa.
Hiến pháp chỉ dừng lại ở những nguyên tắc và tinh thần chỉ đạo; những chi tiết cụ thể, có thể rất quan trọng, như việc qui định các đơn vị bầu cử, tổ chức chính quyền địa phương, số lượng và thể thức chỉ định các thẫm phán tòa án tối cao, số lượng và thể thức bầu cử các thượng nghị sĩ, v.v... do các đạo luật đặc biệt.
Về mặt kỹ thuật, hiến pháp chỉ có một bó buộc chính la đừng có mâu thuẫn giữa các điều khoản. Điều này các luật gia có thể đóng góp nhưng thực ra chỉ đòi hỏi ở người soạn thảo một khả năng lô-gích vừa phải.
Một lời sau cùng về hiến pháp: hiến pháp là hợp đồng về một dự án sống chung và xây dựng một tương lai chung; dự án ấy có thể đòi hỏi nhiều suy tư trong nhiều năm của rất nhiều người, nhưng một khi chúng ta đã biết mình muốn gì, cho mình và cho con cháu, việc soạn thảo thành văn bản có thể chỉ đòi hỏi vài ngày.
Một thoáng suy tư về châu Phi
Cuốn sách này đã đi tới phần kết luận, và phần kết luận chắc phải tập trung vào Việt nam vì đây là cuốn sách của một người Việt nam viết cho những người Việt nam. Tuy vậy, trước khi thực sự nói chuyện đất nước tôi vẫn thấy cần vòng qua một lục địa khá xa lạ đối với người Việt: châu Phi, bởi vì trên một vấn đề rất quan trọng chúng ta lại khá gần với họ. Dĩ nhiên lình trạng của chúng ta không đến nôi bi đát như các nước châu Phi, nhưng đôi khi cũng cần nhìn những thái cực để hiểu rõ bản chất của một vấn đề.
Đối với tôi châu Phi trước hết là phần châu Phi Da Đen ở miền Nam sa mạc Sahara và không kể nước Nam Phi ở cực Nam. Năm nước Bắc Phi (Algéria, Morocco, Tunisia, Libya và Ai Cập) là những nước da trắng, Nam Phi cũng là một nước do người da trắng thành lập và do thiểu số da trắng cai trị trong hàng thế kỷ. Sáu quốc gia này tuy cũng thuộc châu Phi nhưng có những vấn đề của mọi quốc gia bình thường. Họ không giống phần còn lại, phần ở giữa, gồm gần bốn mươi quốc gia toàn người da đen, với gần 80% dân số châu Phi và với cùng một thảm kịch.
Châu Phi này đối với tôi có một sức thu hút đặc biệt. ánh sáng của trí tuệ lần đầu tiên vụt hiện tại đó, tạo nên giống người, rồi tiếp tục soi sáng dẫn dắt con người tiến lên trong hơn một triệu năm. Sau đó loài người tỏa rộng ra châu Âu và châu á. Nhưng sau đó hình như ánh sáng cũng ra đi và bóng đêm trở lại với vùng đất này. Châu Phi Da Đen không tiến hóa thêm nữa.
Một cảm giác kỳ lạ khác là mặc dù đã bỏ ra một số thì giờ để tìm hiểu, hơn thế nữa còn may mắn có nhiều bạn đã làm việc nhiều năm tại châu Phi và cũng có nhiều đồng nghiệp da đen, để có thể học hỏi nơi họ, tôi vẫn không sao nhìn thấy được sự khác biệt giữa các nước châu Phi Da Đen với nhau. Các nước này đối với tôi vẫn chỉ là một khối lạc hậu, có quá khứ nhưng không có lịch sử và chưa chắc chắn có một tương lai đáng gọi là một tương lai. Ngày nay vùng châu Phi này là một thảm kịch không chỉ riêng cho người da đen mà cho cả nhân loại. Hiện tại đã đen tối, lương lai lại còn đen tối hơn. Đất đai đang khô cằn đi, nạn nhân mãn ngày càng trầm trọng, bệnh AIDS gia tăng kinh khủng, chết đói quanh năm, chiến tranh bộ lạc thường ngày, đôi khi với những cuộc diệt chủng khó tưởng tượng. Tất cả mọi chương trình phát triển châu Phi Da Đen với sự tài trợ và yểm trợ của các định chế quốc tế cho tới nay đều đã thất bại.
Lý do chính, nếu không muốn nói là duy nhất, khiến mọi cố gắng đưa châu Phi ra khỏi bế tắc đều thất bại là các chính quyền đều rất yếu. Chúng chỉ có hình thức mà không có nội dung. Một đám loạn quân ô hợp chừng vài ngàn người, có khi chỉ cần vài trăm người, cũng có thể đánh gục một chính quyền hợp pháp. Một đại úy, có khi một trung sĩ, cũng có thể đảo chính lật đổ chính quyền để tự xưng là tổng thống, kiêm đại tướng tổng tư lệnh tối cao quân lực, để rồi sau đó ít lâu cũng bị lật đổ. Các chính quyền trong đại đa số chỉ là những chính quyền giả tưởng, không đủ sức mạnh để tự vệ, chưa nói để đôn đốc những cố gắng phát triển. Gần đây các phe đảng hình như đã khám phá ra sự thực hiển nhiên này và nội chiến trở thànhmột phương thức gọn nhẹ nhất để giải quyết tranh chấp quyền lực. Vào lúc này, cuối năm 2000, hiện có khoảng mười cuộc nội chiến đủ tầm vóc để được dư luận thế giới biết đến.
Trong suốt ba thập niên 1960, 1970 và 1980 độc tài đã được coi là giải pháp để giải quyết vấn đề yếu kém của các chính quyền. Nhưng các chế độ độc tài đã không đem lại nhưng nhà nước mạnh mà chỉ đem đến tham nhũng và nghèo khổ, có khi còn làm tan vỡ nhiều quốc gia như Somalia, Ethiopia, Liberia, Sierra Leone, Suđan v v. Từ thập niên 1990, dân chủ được dùng làm thuốc chữa. Kết quả tuy có khá hơn nhưng cũng không mấy khả quan. Nhưng tại sao các chính quyền châu Phi lại đều yếu? Lý do là vì chúng không phải là những nhà nước - quốc gia, nghĩa là những nhà nước được xây dựng trên một lãnh thổ thực sự và một dân tộc thực sự.
Cho tới nay giải thích thông thường nhất và hình như được mọi người chấp nhận là các biên giới quốc gia tại châu Phi đều giả tạo, do các chính quyền thực dân châu Âu vạch ra một cách tùy tiện, dựa trên những vùng chiếm đóng của các nước châu Âu trước đây chứ không phân ánh một thực tế chủng tộc và văn hóa nào cả. Có những sắc tộc bị ngăn cách và phân tán trong nhiều quốc gia, ngược lại phần lớn các quốc gia đều bao gồm những sắc tộc thù địch với nhau. Giải thích này có lý. Các biên giới tùy tiện này chắc chắn không đóng góp tạo ra sự ổn định. Tuy nhiên có những điều có lý mà không đúng, và đây là một trường hợp.
Nếu những bất ổn tại châu Phi là do các biên giới do các chính quyền thực dân vạch ra thì phải trả lời thế nào hai câu hỏi sau đây:
─ Tại sao Tổ Chức Đoàn Kết Châu Phi (OUA- organisation de lunité Africaine hay AUO -african Unity Organization) đã nhanh chóng thỏa thuận coi những biên giới này là chính thức và phải được tôn trọng? Cần lưu ý là quyết định này đã là quyết định đầu tiên của các nước châu Phi và đã được đồng thanh biểu quyết.
Tại sao cho tới nay chưa hề có những tranh chấp biên giới?
Thực ra cũng đã có một tranh chấp biên giới nhỏ giữa Libya và Chad, nhưng nguyên nhân chỉ là vì hai nước chiếm đóng trước đây, Pháp và ý, chưa qui định biên giới rõ ràng. Ngạc nhiên hơn nữa là khi một quốc gia tan rã không còn chính quyền, như trường hợp Somalia, cũng không có nước nào lấn chiếm lãnh thổ.
Như vậy phải kết luận rằng biên giới giả tạo không phải là nguyên nhân đưa đến sự yếu kém của các chính quyền châu Phi Da Đen.
Vậy nguyên nhân thực sự là gì? Đó là một nguyên nhân nội tại của châu Phi Da Đen và hiện diện trong mọi nước. Nói một cách vắn tắt, các guồng máy nhà nước tại châu Phi đều yếu vì chúng là những nhà nước không có quốc gia. Châu Phi Da Đen chỉ có những nhà nước chứ không có quốc gia nào.
Các quốc gia này đều giả tạo vì đều không dựa trên một nền lảng dân tộc, lịch sử và văn hóa nào cả. Người Mỹ đã mau chóng tự thành lập được một quốc gia từ số không những người châu Phi lại không làm được với sự trợ giúp của thé giới, bởi vì họ không có ý thức dân tộc, nghĩa là không có nguyện ước sống chung với nhau và xây dựng với nhau một tương lai chung. Họ không nhìn nhau như đồng bào mà như những kẻ thù, hay cùng lắm như những người xa lạ. Đó là hậu quả của đợt săn bắt và buôn bán nô lệ đã diễn ra một cách man rợ trong ba thế kỷ 17, 18 và 19. Nhưng trước khi đi xa hơn chúng ta hãy ghi nhận một sự hiển nhiên nhưng nhiều người lại dễ quên: những quốc gia trong đó người dân không chấp nhận lẫn nhau sẽ không có một tương lai nào.
Trong một bộ phim về lịch sử những người da đen tại Hoa Kỳ, một người nô lệ sau khi bị đánh đập tàn nhẫn, than thở: Tôi đang vào rừng đón khúc cây để làm một cái trống thì chúng ập đến bắt tôi đi rồi chúng đưa tôi tới đây làm nô lệ. Cha mẹ tôi, anh em tôi ở đâu bây giờ?. Thật là xúc động. Trong trí tưởng tượng tập thẻ của thế giới, việc săn bắt và buôn bán nô lệ đã xảy ra tương tự như thế, nghĩa là những người da đen châu Phi bị bắt cóc, dồn xuống tàu và chở qua châu Mỹ. Nhưng theo các tài liệu khảo cứu nghiêm túc, sự thực đã không xảy ra như thế. Những người bị đưa sang Mỹ làm nô lệ cũng không phải là những người xấu số nhất, trái lại họ đã rất may mắn so với nhiều đồng bào họ. _
Không phải các toán thực dân da trắng đã lùng bắt người da đen. Cũng không phải người da trắng đã chỉ huy các toán quân da đen đi săn bắt nô lệ. Người phương Tây đã chỉ mua nô lệ của các trung tâm cũng cấp nô lệ. Việc truy lùng và săn bắt nô lệ hoàn toàn do các tổ chức da đen tại châu Phi thực hiện. Có thể buộc tội người phương Tây đã có trách nhiệm tạo ra một thị trường tiêu thụ, nhưng cũng phải nhìn nhận ngược lại rằng việc xuất cảng nô lệ đã có từ thế kỷ thứ 10 tại châu Phi. Người da trắng đã chỉ tìm thấy một thị trường xuất cảng nô lệ vào giữa lúc mà sự phát triển của nông nghiệp Hoa Kỳ đòi hỏi nhiều nhân lực mới. Tục buôn bán nô lệ không biết đã có từ thời nào tại châu Phi. Cố lẽ nó đã có ngay từ khi người châu Phi Da Đen bắt đầu sống có tổ chức. Xã hội châu Phi đã ra đời trong sự thiếu vắng hoàn toàn một ý thức về loài người như là một chủng tộc với cấu tạo cơ thề, những khả năng và những nhu cầu như nhau và do đó cần kính trọng lẫn nhau. Tuyệt đối không có sự thương yêu giữa người và người, ngoại trừ liên hệ bộ tộc và huyết thống. Đây là lý do giải thích tại sao châu Phi đã dừng lại ở trình độ bán khai.
Mức độ phát triển của một xã hội tùy thuộc một cách mật thiết ở mức độ quí trọng con người của xã hội đó. Châu Phi đã hoàn toàn không có sự quí trọng con người. Các bộ lạc và các gia đình có thể lực đã săn bắt nô lệ phục dịch cho mình và đem buôn bán hoặc giết bỏ như một vật dụng từ một thời rất xa xưa. Đến thế kỷ thứ 10 bắt đầu có dịch vụ xuất cảng nô lệ sang các nước A Rập, đặc biệt là Ai Cập. Việc buôn bán nô lệ giữa khối A Rập và châu Phi vẫn tiếp tục trong thời gian có làn sóng buôn bán sang châu Mỹ. Theo ước lượng của một số nhà nghiên cứu thì số lượng nô lệ bị bán qua châu Mỹ trong hơn hai thế kỷ, khoảng mười triệu người, cũng tương đương với số lượng nô lệ bị bán sang khối A Rập trong chín thế kỷ.
Việc buôn bán nô lệ sang châu Mỹ đã làm cho phong trào săn bắt nô lệ gia tăng hẳn lên cả về qui mô lẫn mức độ tàn bạo. Các tổ chức nhà nước đầu tiên ra đời tại châu Phi đã là những nhà nước sản xuất nô lệ (một cụm từ thông dụng thời đó). Các thủ đô của những nhà nước sản xuất nô lệ được thành lập tại các vùng bờ biển, đó vừa là những trung tâm tập trung nô lệ cuối cùng trước khi xuống tàu vừa là nơi tập trung những hàng hóa được chở tới để trao đổi. Khi nguồn nhân lực vùng bờ biển suy giảm, một số vệ tinh được thành lập trong đất liền để săn bắt sâu hơn trong lục địa. Các nhà nước nô lệ vì vậy còn có những chư hầu trong lục địa thi đua làm công tác săn bắt nô lệ và bán lại cho thủ đô. Sau đó còn có một số bộ lạc khác vì muốn sống yên ổn cũng phải đi lùng bắt nô lệ để nộp cho các trung tâm lớn hơn. Nhiều khi các bộ lạc giao chiến với nhau để vừa tự vệ vừa bắt tù binh làm nô lệ.
Nói chung, trong suốt ba thế kỷ 17, 18 và 19, cả châu Phi tan tác vì một phong trào săn lùng nô lệ rộng khắp và điên cuồng. Số nô lệ tới được bờ biển để xuống tàu chỉ là một tỷ lệ tương đối nhỏ so với số người bị thiệt mạng vì bị giết trong lúc bị truy lùng hay chết vì kiệt sức trên đường áp tải ra bờ biển. Mặc dầu vậy, vào năm 1815, khi nước Anh cấm các nước thuộc ảnh hưởng của mình buôn bán nô lệ họ đã phải bồi thường thiệt hại cho số lượng 800.000 nô lệ tồn kho Con số này tự nó nói lên qui mô và mức độ man rợ của phong trào buôn bán nô lệ.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 tại Anh, nước buôn bán nô lệ nhiều nhất, đã có những tiếng nói phản đối. Năm 1807 quốc hội Anh biểu quyết một đạo luật cấm mọi hoạt động buôn bán nô lệ. Tích cực trong việc buôn bán nô lệ trước đó bao nhiêu, nước Anh sau đó tận lình trong cố gắng bài trừ việc buôn bán nô lệ bấy nhiêu. Họ gặp sự chống đói của Tây Ban Nha và sự chần chừ của Pháp. Tuy vậy vào năm 1815, nhờ sức mạnh áp đảo, họ cũng đã áp đặt được một hiệp ước quốc tế cấm buôn bán nô lệ. Từ đó các tàu chiến của Anh ráo riết truy kích các tàu buôn nô lệ trên biển cả. Việc buôn bán nô lệ sau đó tuy vẫn còn tiếp tục một cách lén lút nhưng đã giảm hẳn đi. Trong nửa sau thế kỷ 19, mặc dầu việc buôn bán nô lệ sang châu Mỹ đã coi như chấm đứt, việc săn bắt nô lệ tại châu Phi không giảm đi mà chỉ tăng thêm về mức độ dã man. Số cầu về nô lệ giảm đi càng khiến các nhà nước sản xuất nô lệ trở nên tàn ác hơn. Những nô lệ yếu đuổi bị tàn sát thẳng tay để chỉ giữ lại những nô lệ khỏe mạnh và được giá.
Năm 1885, khi các cường quốc châu Âu họp tại Berlin và quyết định chia nhau cai trị trực tiếp châu Phi, tệ xuất cảng nô lệ mới chấm dứt. Tới nay lương tâm nhân loại vẫn còn xúc động vì phong trào buôn bán nô lệ, nhưng ngoài một số nhà nghiên cứu ít ai tìm hiểu thực chất của nó. Tập quán buôn bán nô lệ đã là một truyền thống lâu đời của người châu Phi. Nhưng, như mọi tập quán, nó đã được thời gian bình thường hóa. Người châu Phi, kể cả những nạn nhân, đều dần dần sống quen với nó, và châu Phi Da Đen cũng đã ổn định ở một mức độ văn minh và phát triển tối đa mà một xã hội không có ý thức về con người có thể đạt tới. Sự giao dịch với khối A Rập đã biến việc buôn bán nô lẽ gia tăng và trở thành một hoạt động ngoại thương từ thế kỷ thứ 10, nhưng dần dần với thời gian nó cũng đã thành một điều mà người châu Phi cam chịu như một định mệnh. Trái lại, chính đợt săn lùng qui mô và man rợ diễn ra từ thế kỷ 17, khi người châu Âu bắt đầu buôn nô lệ sang châu Mỹ, đã vượt quá mọi sức chịu đựng và làm châu Phi hoàn toàn tan nát. Sau đó sự cai trị của người châu Âu đã dần dần khai hóa cho người châu Phi Da Đen khiến họ ý thức được sự tàn bạo mà họ đã là nạn nhân, rồi căm thù những thủ phạm. Nhưng các thủ phạm lại không ai khác hơn là những người đang cầm quyền, hay các bộ lạc lân cận. Đó là lý do khiến các nhà nước mới thành lập không thể mạnh vì chúng không được xây dựng trên một nguyện ước sống chung và xây dựng một tương lai chung.
Di sản của cuộc buôn bán nô lệ để lại vẫn còn rất nặng nề. Hơn một nửa thế kỷ dưới trật tự áp đặt của người châu Âu đã phần nào hàn gắn những đỗ vỡ, nhưng gần một nửa thế kỷ độc lập đã chỉ mở lại những vết thương khi các bộ lạc da đen phải trực diện với nhau. Cần ý thức rằng khi các nước châu Âu quyết định chia nhau cai trị châu Phi thì tại lục địa này chỉ có những nhà nước sản xuất nô lệ. Những kháng cự ít ỏi mà họ gặp đã chỉ là những kháng cự của các nhà nước này. Châu Phi lúc đó đã hoàn toàn tan rã và kiệt quệ, những con người duy nhất có chút khôn ngoan đều là những kẻ săn nô lệ. Để cai trị, người châu Âu đã phải dùng lại chính những người này. Sau đó đến khi các nước châu Âu rút ra họ cũng trao lại chính quyền cho con cháu của những trùm săn bắt và buôn bán nô lệ, những kẻ mà với ngôn ngữ ngày nay ta có thể gọi là tội phạm đối với nhân loại. Các chính quyền châu Phi vì vậy không có căn bản chính đáng nào. Tập đoàn cầm quyền luôn luôn phải dựa trên một sắc tộc trong khi các sắc tộc khác nhìn sắc tộc cầm quyền, và nhìn nhau, như những kẻ thù không thề đội trời chung.
Trong bốn thập niên được độc lập, châu Phi đã thiếu hẳn một tư tưởng chính trị làm nền tảng để lạo dựng ra những quốc gia. Cũng có một vài cố gắng lẻ tẻ, như Leopold Sedar Senghor, cựu tổng thống Senegal và thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, đưa ra thuyết Négritude, nhưng chỉ là những biểu văn hời hợt. Châu Phi vẫn còn thiếu một phân tích lương thiện về chính mình, điều mà các trí thức và các chính khách châu Phi không thể làm, do chính xuất thân của họ. Diễn văn thông thường của các chính trị gia châu Phi cho tới nay vãn chỉ là đỗ tội cho người phương Tây đã bắt và bán người châu Phi làm nô lệ, rồi sau đó chiếm đóng và vơ vét tài nguyên của châu Phi. Cáo trạng này không phải là sai, nhưng rất thiếu sót và chắc chắn không đủ để đoàn kết người châu Phi trong một căm thù chung đối với người phương Tây. Nguyên nhân của thảm kịch chính là văn hóa (hay sự thiếu vắng văn hóa?) của châu Phi. Hận thù lớn nhất vẫn là hận thù giữa người châu Phi với nhau, mà chỉ có một cố gắng hòa giải tích cực và bền bỉ trong hàng thế kỷ mới có thể xóa bỏ được. Nhưng cho tới nay chưa có chính quyền châu Phi nào đủ sáng suốt đê nhìn thấy sự cần thiết của cố gắng hòa giải này.
Những phần tử tinh hoa của châu Phi Da Đen mà tôi đã tiếp xúc - và tôi đã may mắn gặp được khá nhiều người như vậy, những trí thức lỗi lạc, những người đã cầm quyền, những người đang cầm quyền và cả những người đang cố gắng để giành vị trí lãnh đạo trong nhiều nước châu Phi - đều không nhận thức được nhu cầu hòa giải dân tộc hay, rộng hơn, hòa giải giữa người châu Phi Da Đen với nhau. Họ thừa hưởng một di sản lịch sử và họ coi đó là một sự kiện bình thường. Họ cho rằng người châu Phi không có gì để thù hận nhau vì không ai có trách nhiệm cả, thay vì nghĩ rằng mọi người đều có trách nhiệm. Họ không hiểu rằng nếu không trút bỏ được di sản lịch sử đó thì các nước châu Phi sẽ không có một tương lai nào cả. Tôi không phải là một nhà nghiên cứu để có thể bỏ thì giờ tìm hiểu những vấn đề tại lục địa rất xa xôi này. Tôi đã chỉ chú ý đến châu Phi sau khi qua một vài hiểu biết đầu tiên tôi nhận ra là có những vấn đề của châu Phi rất đáng để người Việt nam chúng ta suy nghi và rút ra những kết luận cho mình.
Trước hết là về chính thảm kịch buôn bán nô lệ. Yêu cầu nhân lực nô lệ của châu Mỹ đã tạo ra thảm kịch săn lùng man rợ trong hơn hai thế kỷ bởi vì nó đã gặp môi trường thuận lợi tại châu Phi. Thị trường tiêu thụ nô lệ châu Mỹ đã không tạo ra mà chỉ biến một tệ nạn có sẵn thành một tai họa khủng khiếp. Trí thức và các nhà chính trị châu Phi, con cháu những trùm săn bắt nô lệ phải nhận phần trách nhiệm trước hết, phải sám hối và phải nỗ lực hàn gắn những vết thương mà ông cha họ đã gây ra. Thiếu thành tâm ăn năn và hàn gắn này châu Phi sẽ không có tương lai.
Cũng tương tự, khi chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa đặt nền tảng trên căm thù (căm thù giai cấp) được du nhập vào Việt nam nó đã tìm thấy một mảnh đất mầu mỡ: một đại đa số nghèo khó bị chà đạp từ cả ngàn năm, những hận thù chồng chất do chiến tranh Trịnh Nguyễn, nội chiến Nguyễn ánh - Tây Sơn, chính sách cấm đạo, rồi cuộc chiếm đóng của người Pháp với những người theo Pháp và những người chống Pháp v.v... Chủ nghĩa cộng sản vì thế đã thành công tại Việt nam vì đất nước ta đã chín muồi để chờ đợi một tiếng gọi thù hận. Không nên đỗ lỗi cho Pháp, cho Mỹ, cho Lênin, Stalin hay Mao. Cũng không nên đỗ lỗi cho Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Bảo Đại hay Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu. Họ chỉ là những sản phẩm của một di sản lịch sử đầu buồn và một đất nước bệnh hoạn. Không có họ thì cũng sẽ có những con người khác làm những điều họ đã làm. Thiếu một cái nhìn vượt thoát, chúng ta sẽ không thể hiểu thực trạng của mình và nhìn ra lối thoát.
Sau đó là tình trạng bi đát hiện nay và tương lai bế tắc của chấu Phi. Hơn một thế kỷ sau, vết thương của việc săn bắt và buôn bán nô lệ vẫn như còn nguyên vẹn. Những trí thức châu Phi, mà tôi đã gặp, đều hằn học với các sắc tộc khác trong nước họ mà không hề ý thức rằng các sắc tộc khác cũng có những lý do tương tự để hằn học với họ, và chính sự hận thù giữa các sắc tộc đã là lý do khiến châu Phi bế tắc. Những xung đột đẫm máu bao giờ cũng để lại những hậu quả rất dai đáng, lưu truyền qua các thế hệ. Hận thù không tự nó tan biến với thời gian. Nó vẫn còn đó và làm tê liệt châu Phi. Ngay cả với một cố gắng hàn gắn thành thực và kiên trì thì xã hội cũng chỉ có thể tạm lành bệnh sau một thời gian rất dài. Châu Phi vẫn còn rất bi đát và bế tác vì di sản của những hận thù do một thảm kịch cách đây hơn một thế kỷ. Một mình thời gian không đủ, còn cần một cố gắng hàn gắn thật quả quyết.
Chúng ta cũng thế, chúng ta đã trải qua hơn ba thế kỷ chia cắt, nôi chiến, xung đột và ngoại thuộc, kết thúc bởi một cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài ba thập niên với hàng triệu người thiệt mạng và sau đó là vô số biện pháp phân biệt đối xử. Chúng ta cũng bị thương tích rất nặng. Mỗi lần nghe những người khẳng định dân tộc Việt nam là một khối thuần nhất, không hận thù nhau và không cằn hòa giải, tôi lại sững sờ vì sự vô tư của họ. Cũng như các nước châu Phi, chúng ta đã đỗ vỡ và tổn hại rất nặng trong thể xác và trong tâm hồn. Hòa giải dân tộc cũng là chuyện dời sông lấp biển đối với chúng ta, nhưng nếu không thực hiện được hòa giải và hòa hợp dân tộc thì những la sẽ chỉ là một dân tộc bại liệt, và dù dưới chế độ nào đi nữa cũng chỉ có một tương lai thua kém. Trước mắt, nếu không hòa giải được với nhau, nếu mỗi người vẫn khư khư giữ lấy cái lý riêng của nình, chúng ta sẽ vẫn còn tiếp tục chia rẽ người Nam - người Bắc, Phật Giáo ─ Công Giáo, Quốc Gia - Cộng Sản và tiếp tục quằn quại dưới chế độ độc tài đảng trị.
Cuối cùng là một tật nguyền chung của người châu Phi Da Đen và chúng ta: thiếu hẳn phản xạ hòa giải. Trong hàng triệu năm người châu Phi Da Đen chỉ biết một phương thức để giải quyết các mâu thuẫn, đó là tiêu diệt đối phương hoặc bị đối phương tiêu diệt, do đó vấn đề hòa giải không bao giờ đặt ra vì không có đối tượng. Tôi đã hỏi rất nhiều trí thức châu Phi Da Đen và đều nhận được một câu trả lời: không những ý niệm hòa giải không có trong đầu óc người châu Phi mà ngay cả từ ngữ hòa giải cũng không có trong bất cứ một thổ ngữ nào. Chúng ta không đến nỗi như vậy, nhưng tật nguyền của chúng ta cũng rất trầm trọng. Kề từ đời nhà Trần, nghĩa là từ gần tám thế kỷ nay, nhổ cỏ tận gốc, tiêu diệt toàn bộ, tru di tam tộc vẫn là những biện pháp được người cầm quyền sử dụng để thay thế cho hòa giải, để khỏi phải hòa giải. Xét cho cùng đó cũng là một cách để giải quyết nhu cầu hòa giải. Dần dần với thời gian, cách ứng xử hung bạo đó đã ăn rễ vào tâm lý tập thể và làm cho ý niệm hòa giải trở thành xa lạ và bất bình thường đối với người Việt.
Khi nhóm Thông Luận, sau này là Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, đưa ra chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc, chúng tôi đã bị đã kích gay gắt từ mọi phía. Chính quyền cộng sản cho đó là một âm mưu để đánh phá chính quyền cách mạng bằng cách đưa ra một nhu cầu giả tạo (vì dân tộc Việt nam là một khối thuần nhất dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản). Các lực lượng chống cộng coi đó chỉ là toan tính chính trị đen tối trong ý đồ bắt tay hợp tác với chế độ cộng sản vì tham vọng cá nhân (vì dân tộc Việt nam là một khối thuần nhất chống lại bạo quyền cộng sản). Rất ít người nhìn thấy đó là đoạn tuyệt tâm lý để thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của hận thù và chia rẽ, được làm vua thua làm giặc đang giam hãm chúng ta trong sự thua kém bi đát. Hòa giải và hòa hợp dân tộc có thể là một chiến lược, trong chừng mực nó công phá tinh thần bất dung, óc độc quyền lẽ phải và tham vọng độc quyền chính trị, nhưng nó trước hết là một triết lý chính trị mới cho đất nước.
Tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng vượt lên trên những quan tâm nhất thời. Nó nhắm tháo gỡ tất cả mọi hận thù và hiềm tỵ có thể có giữa người Kinh và người Thượng, người Nam và người Bắc, người Công Giáo và người Phật Giáo, người quốc gia cũ và người cộng sản cũ, người hải ngoại và người trong nước, người thành thị và người thôn quê, người giàu và người nghèo, những người đã chịu nhiều mất mát và những người được hoàn cảnh ưu đãi, nói chung là mọi nguyên nhân chia rẽ do điều kiện địa lý, di sản lịch sử và các thành kiến để lại. Để thay thế tâm lý đưọc-thua bằng tâm lý cùng thắng. Để quan niệm quốc gia không phải như một chiến trường mà như một không gian liên đới cho những cố gắng mưu tìm những thành công riêng cho mỗi người trong khuôn khổ một thành công chung cho tất cà.
Một lời trước khi chấm dứt. Tôi đã bỏ qua nước Nam Phi vì nó không giống những nước châu Phi Da Đen khác. Tuy nhiên cũng có một điều đáng suy nghĩ về quốc gia này. Tại đây thiểu số da trắng trước khi đầu hàng đã áp dụng chính sách phân cách (Apartheid). Họ lùa những người da đen vào những khu tự trị riêng biệt. Đó là một chiến lược để biến những người da đen thành những người ngoại quốc, để biến một vấn đề đối nội thành một vấn đề đối ngoại. Ngày nay cũng có những người Việt nam nói rằng dân tộc Việt nam rất thuần nhất, không hận thù nhau và không có nhu cầu hòa giải, chỉ có một thiểu số cộng sản phản bội và chống lại dân tộc (hay chỉ có một thiểu số phản động chống lại tổ quốc xã hội chủ nghĩa) cần phải loại bỏ. Cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ Apartheid, muốn biến những người trong nước thành những người ngoại quốc để khỏi phải hòa giải. Ngôn ngữ này đã bị vất bỏ tại Nam Phi. Nó cũng sẽ phải bị vất bỏ tại Việt nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét