Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. P04

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục
Theo sách An Nam kỷ yếu , chúa Nam Hán sau khi bắt được Thừa Mỹ, sai tướng là Lý Tiến sang làm thứ sử, cùng với Khắc Chính đóng giữ Giao Châu. Dương Diên Nghệ lấy tư cách là tướng cũ của Khúc Hạo, tập họp quân sĩ, đánh bại Khắc Chính. Khắc Chính
phải chạy về Nam Hán. Chúa Nam Hán ý muốn chiêu dụ, tạm phong tước vị cho Diên Nghệ. Chúa Nam Hán bảo những kẻ tả hữu mình rằng: "Dân Giao Châu thích nổi loạn, ta chỉ có thể cơ mi206 được thôi".
Lời chua - Dương Diên Nghệ: Người Ái Châu. Sách An Nam kỷ yếu chép là Đình Nghệ. Nay theo sách Cương mục (Trung Quốc) đổi lại là Diên Nghệ.

Năm Tân Mão (931). (Hậu Đường, Minh Tông, năm Trường Hưng thứ 2).

Tháng 12, mùa đông. Dương Diên Nghệ đánh đuổi Lý Tiến, giết Trần Bảo, lấy lại Giao Châu, tự xưng là tiết độ sứ.

Trước kia, Diên Nghệ vẫn có chí định khôi phục Giao Châu có nuôi ba nghìn tráng sĩ làm nha binh . Lý Tiến biết việc đó, cho người gấp về báo với chúa Nam Hán. Diên Nghệ liền kéo quân vây đánh Lý Tiến. Chúa Nam Hán sai thừa chỉ là Trần Bảo đem quân sang cứu. Quân Trần Bảo chưa đến nơi thì thành đã bị đánh phá, Lý Tiến phải trốn về. Trần Bảo đến nơi, cho quân vây thành; Diên Nghệ ra đánh, Trần Bảo bị thua và chết. Diên Nghệ tự xưng là tiết độ sứ, quản lĩnh công việc Giao Châu.

Năm Đinh Dậu (937). (Tấn, Cao tổ, năm Thiên Phúc thứ 2).

Tháng 3, mùa xuân. Nha tướng của Dương Diên Nghệ là Kiểu Công Tiện giết Diên Nghệ và lên thay Diên Nghệ.

Lời chua - Kiểu Công Tiện: Theo sách An Nam kỷ yếu , Tiện là người Phong Châu.

Năm Mậu Tuất (938). (Tấn năm Thiên Phúc thứ 3).

Tháng 9, mùa thu. Một nha tướng khác của Diên Nghệ là Ngô Quyền khởi binh, đánh giết Kiểu Công Tiện. Chúa Nam Hán, Lưu Cung sai con là Hoằng Tháo sang cứu viện. Ngô Quyền đón đánh ở sông Bạch Đằng: quân Nam Hán bị thua, Hoằng Tháo bị chết đuối.

Ngô Quyền, người xã Đường Lâm, thuộc dòng quý tộc đã lâu đời, cha là Mân trước làm quan mục ngay châu nhà. Khi Ngô Quyền mới sinh, có điềm sáng rực cả nhà, trạng mạo đặc biệt khác thường, trên lưng có ba nốt ruồi đen. Người xem tướng lấy làm lạ, bảo rằng sau này có thể làm chúa một phương. Vì thế mới gọi tên là Quyền. Khi Quyền lớn lên, mặt mũi khôi ngô, mắt sáng như chớp, chân bước khoan thai như dáng con hổ, có trí dũng, sức khoẻ cất nổi cái vạc, làm nha tướng của Diên Nghệ. Diên Nghệ gả con gái cho. Ngô Quyền coi giữ Ái Châu. Khi Công Tiện giết Diên Nghệ, Ngô Quyền đem quân từ Ái Châu ra đánh, giết được Công Tiện.

Theo sách Cương mục (Trung Quốc), Công Tiện sai sứ đem của đút lót cho chúa Nam Hán để xin cứu viện. Chúa Nam Hán là Lưu Cung định nhân dịp rối loạn ấy sang lấy Giao Châu, mới cho con là Vạn vương Hoằng Tháo làm Giao vương, đem quân sang cứu Công Tiện. Lưu Cung có hỏi Sùng Văn sứ là Tiêu Ích về sách lược; Tiêu Ích trả lời: "Hiện này mưa dầm đã suốt mấy tuần, đường biển hiểm trở xa khơi; Ngô Quyền lại là người giỏi lắm, chớ nên coi thường. Đại quân phải nên giữ gìn thận trọng, dùng nhiều người đưa đường rồi sau hãy tiến". Lưu Cung không nghe, sai Hoằng Tháo đem thuyền chiến kéo thẳng sang đánh Giao Châu. Khi ấy, Ngô Quyền đã giết được Công Tiện, đem quân đón đánh. Trước hết lấy các cọc gỗ đầu đẽo nhọn và bịt sắt trồng ngầm ở cửa biển, nhân lúc nước triều lên cho các thuyền nhẹ ra khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy. Hoằng Tháo đuổi đánh, thình lình nước triều rút cạn, thuyền chiến mắc phải cọc bịt sắt, không trở về được: quân Nam Hán bị thua to, Hoằng Tháo bị chết đuối.

Theo Ngũ đại sử , tướng cũ của Diên Nghệ là Ngô Quyền đánh Giao Châu, Công Tiện cho người sang Nam Hán xin quân cứu viện. Lưu Cung phong Hoằng Tháo làm Giao Vương, xuất quân tới sông Bạch Đằng để đánh Ngô Quyền. Lưu Cung thì đem quân đóng ở trấn Hải Môn. Ngô Quyền ra đón đánh, Hoằng Tháo bị thua và chết, Lưu Cung thu quân kéo về.

Lời bàn của Ngô [Thì] Sĩ - Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu? Lời phê - Ngô Quyền gặp được ngụy triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Tháo là thằng hèn kém, nên mới có được trận thắng trên sông Bạch Đằng. Đó là một việc may, có gì đáng khen. Nếu gặp phải tay Trần Bá Tiên, mà bảo rằng Ngô Quyền không phải theo gót Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, thì ít có lắm! Lời chua - Đường Lâm: Tên xã xưa. Xem thuộc Đường, năm Trinh Nguyên thứ 7 (Tb.4, 26). Theo sách An Nam kỷ yếu , Ngô Quyền, người Ái Châu. Vậy rõ sách nào chép đúng.

Sông Bạch Đằng: Bắt đầu từ sông Lục Đầu thuộc địa hạt tỉnh Bắc Ninh phân lưu chạy vào địa hạt tỉnh Hải Dương: Một chi theo Mỹ Giang, một chi theo Châu Cốc Sơn, hai chi hợp lại ở xã Đoan Lễ. Khúc sông hợp lại này gọi là sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng phía nam giáp giới huyện Thủy Đường, tỉnh Hải Dương; phía bắc giáp giới huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Yên; chuyển về phía nam 29 dặm, đổ ra cửa biển Nam Triệu. Theo sách Địa lý chí208 của Nguyễn Trãi, sông Bạch Đằng có tên gọi nữa là sông Vân Cừ, rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao ngất, nhiều ngành sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến, thực là một nơi hiểm yếu về đường biển. Ngô vương Quyền đời Tiền Ngô đánh bại Hoằng Tháo, Hưng Đạo vương đời Trần chiến thắng quân Nguyên đều ở trên sông Bạch Đằng này.

Năm Kỷ Hợi (939). (Ngô vương Quyền, năm thứ 1; Tấn, năm Thiên Phúc thứ 4).

Mùa xuân. Ngô Quyền tự xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa.

Lời tán tụng của Ngô [Thì] Sĩ - Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa, đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại. Lời chua - Cổ Loa: Xem An Dương vương năm thứ 3 (Tb.I, 9).

Lập Dương thị làm hoàng hậu.

Dương Hậu là con gái Diên Nghệ. Trước kia, Ngô Quyền làm nha tướng của Diên Nghệ, Diên Nghệ gả con gái cho; đến đây lập Dương thị làm hoàng hậu.

Đặt trăm quan, dựng nghi lễ trong triều, định màu sắc các đồ mặc.

Năm Giáp Thìn (944). (Ngô vương năm thứ 6; Tấn, Tề vương, năm Khai Vận thứ 1).

Ngô vương Quyền mất.

Lời bàn của Ngô Sĩ Liên - Nhà Tiền Ngô khởi lên, không những có công đánh giặc thắng lợi, lại còn đặt ra trăm quan, dựng ra nghi lễ trong triều, định màu sắc các đồ mặc, ta cũng đã thấy sơ qua về quy mô đế vương; thế mà hưởng ngôi vua không được lâu dài, chưa thấy có kết quả gì về chính trị, thật là đáng tiếc! Năm Ất Tị (945). (Tấn, năm Khai Vận thứ 2).

Tam Kha, em Dương hậu, tự xưng là Bình Vương.

Lời chua - Dương Tam Kha: Theo lời chua trong Sử ký của Ngô [Thì] Sĩ, Tam Kha người làng Dương Xá, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Con cả Ngô vương Quyền là Xương Ngập chạy đến Nam Sách, nương nhờ Phạm Lệnh Công.

Trước kia, Ngô vương Quyền, khi bệnh kịch, có trối trăng dặn Tam Kha giúp con mình là Xương Ngập. Tam Kha liền cướp lấy ngôi, tiếm xưng là Bình vương. Xương Ngập sợ, chạy đến Nam Sách Giang, ẩn náu tại nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương. Tam Kha nuôi con thứ hai của Ngô vương Quyền là Xương Văn làm con mình. Các con vợ thứ của Ngô vương là Nam Hưng, Kiền Hưng còn nhỏ, đều theo Dương hậu. Tam Kha sai Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạch đem quân đi lùng Xương Ngập: trước sau đến ba lần đều không bắt được. Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập giấu vào trong động núi. Tam Kha biết tin, lại cho sục sạo, cuối cùng vẫn không tìm thấy.

Lời bàn của Ngô Sĩ Liên - Việc làm của Phạm Lệnh Công thật là trung nghĩa. Tam Kha là kẻ bầy tôi, đuổi con cả của vua đi mà cướp lấy ngôi, thế mà Phạm Lệnh Công dám giấu Xương Ngập một chỗ, là có ý muốn bảo toàn lấy dòng dõi họ Ngô. Tại đây ta thấy việc Chử Cữu và Trình Anh lại tái diễn. Ai dám bảo trong cả một nước to lớn mà không có trung thần nghĩa sĩ hay sao? Lời chua - Nam Sách Giang: Nay là phủ Nam Sách thuộc tỉnh Hải Dương.

Trà Hương: Tức là huyện Kim Thành, xưa gọi là Trà Hương, đều thuộc tỉnh Hải Dương.

Đỗ Cảnh Thạc: Người huyện Thuận Đức thuộc Quảng Đông.

Trình Anh, Chử Cữu: Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, về đời Cảnh Công nước Tấn năm thứ 3, Đồ Ngạn Giả (quan tư khấu nước Tấn) giết con Triệu Thuẫn là Triệu Sóc và diệt cả họ Triệu, Trình Anh và Chử Cữu, là bạn của Triệu Sóc, cùng nhau liều chết đem giấu con Triệu Sóc là Triệu Vũ để bảo tồn lấy dòng dõi họ Triệu.

Năm Canh Tuất (950). (Hán, Ân đế, năm Kiền Hựu thứ 3).

Ngô Xương Văn đánh Tam Kha truất bỏ đi.

Tam Kha sai Xương Văn cùng hai quan sứ là Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình. Khi đi đến huyện Từ Liêm, Xương Văn bảo hai quan sứ rằng: "Đức trạch của Tiên vương ta thấm khắp lòng dân, tất cả các chính lệnh thi hành không ai là không vui lòng theo cả. Chẳng may Tiên vương ta mất đi. Bây giờ Bình vương là kẻ bất nghĩa, tự cướp lấy ngôi, còn tội gì hơn nữa! Nay lại sai chúng ta đi đánh các ấp vô tội kia, may mà được đã vậy, nếu họ không phục thì làm thế nào?". Hai quan sứ trả lời: "Tướng quân bảo sao chúng tôi cũng xin vâng mệnh". Xương Văn bảo: "Ý tôi muốn đem quân quay về đánh úp Bình Vương để phục lại cơ nghiệp của tiền nhân, có nên không?". Hai quan sứ đều lấy làm phải. Bấy giờ mới trở về đánh úp Tam Kha. Mọi người muốn giết đi, nhưng Xương Văn bảo rằng: "Bình vương đối với ta cũng có ơn, nỡ nào đem giết?". Rồi giáng Tam Kha xuống làm Trương Dương công, nhân chỗ ở ấy cho làm thực ấp . Tam Kha tiếm ngôi được 6 năm.

Lời chua - Hai thôn Thái Bình: Sử cũ chép là hai thôn Đường, Nguyễn thuộc Thái Bình.

Thái Bình: Xem Triệu Việt vương năm thứ 9 (Tb.4, II).

Trương Dương: Sử cũ chua: tức là bến đò Chương Dương, bây giờ ở huyện Thượng Phúc.

Năm Tân Hợi (951). (Ngô, Nam Tấn vương Xương Văn, năm thứ 1; Chu, Thái tổ, năm Quảng Thuận thứ 1).

Ngô Xương Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn vương.

Xương Văn, là con thứ Ngô Vương Quyền, sau khi truất bỏ Tam Kha, lên ngôi vua. Ấy là nhà Hậu Ngô.

Sai sứ giả đón anh là Xương Ngập về. Xương Ngập xưng là Thiên Sách vương.

Đón Xương Ngập ở Trà Hương về kinh đô, cùng nhau trông coi việc nước.

Đinh Bộ Lĩnh khởi binh ở Hoa Lư. Vua Nam Tấn đánh không được.

Bộ Lĩnh, người Hoa Lư, từ bé đã có chí khí lớn. Bấy giờ trong nước rối loạn, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn đi theo sứ quân Trần Minh Công. Minh Công thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô, khác thường, và có độ lượng, nên giao cho binh quyền. Sau khi Minh Công mất, Bộ Lĩnh thống lĩnh cả các quân, về giữ Hoa Lư. Nam Tấn vương cùng với Thiên Sách vương đem quân đến đánh, Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào làm con tin để hoãn binh. Khi Đinh Liễn đến, hai vương liền bắt cả Đinh Liễn đem đi đánh, hơn một tháng cũng chưa đánh được, mới treo Liễn lên đầu ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh: "Nếu không hàng thì sẽ giết Liễn!". Bộ Lĩnh giận, nói: "Tài trai đã quyết chí công danh, khi nào lại chịu bắt chước như đàn bà con trẻ!". Rồi sai hơn mười tay nỏ cùng nhằm chực bắn vào Liễn. Hai vương thấy thế, kinh hãi bảo nhau: "Ta treo con hắn là cốt muốn cho hắn đầu hàng ngay, nay hắn tàn nhẫn như vậy, thì dẫu giết con hắn đi cũng chẳng ích gì". Hai vương bèn không giết Đinh Liễn nữa, rút quân về. Sau, Đinh Liễn lại trở về Hoa Lư.

Lời cẩn án - Hoa Lư ở về sơn phận hai xã Uy Viễn và Uy Tế thuộc Ninh Bình. Nơi đây bốn mặt đều có núi đá đứng thẳng như bức vách, trong có một chỗ hơi bằng phẳng rộng rãi, người xứ ấy gọi là động Hoa Lư. Theo sách An Nam kỷ yếu, Hoa Lư ở về huyện Lê Bình. Lê Bình bây giờ là Gia Viễn, trong lòng động rộng hàng hai trượng có một cái lạch nước quanh co khuất khúc chảy đến phía nam thành Hoa Lư. Thành Hoa Lư cũng ở huyện Lê Bình. Họ Đinh nhân thế núi đắp thành ấy chu vi năm trăm trượng. Vết thành cũ vẫn còn. Như thế thì động Hoa Lư là chỗ Đinh Tiên Hoàng khởi binh; Thành Hoa Lư ở Trường Yên là nơi đóng đô của họ Đinh. Có thuyết cho rằng hai phủ Yên Khánh và Thiên Quan xưa kia đều gọi là Hoa Lư cả; nếu bảo động Hoa Lư ở trong núi Trường Yên thì lầm. Năm Giáp Dần (954). (Ngô, Nam Tấn vương năm thứ 4; Chu, Thế tông, năm Hiển Đức thứ 1).

Xương Ngập mất. Nam Tấn vương sai sứ sang Nam Hán.

Trước kia, Thiên Sách vương Xương Ngập chuyên quyền, Nam Tấn vương không tham dự chính sự nữa. Hai bên do đấy có sự xích mích. Đến nay, Xương Ngập mất, Nam Tấn vương mới chính mình cầm chính quyền, sai sứ sang xin mệnh lệnh chúa Nam Hán là Lưu Thạnh. Nam Hán phong cho Nam Tấn vương chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ kiêm đô hộ.

Theo Ngũ đại sử (Nam Hán thế gia) có chép về Ngô Xương Tấn, người Giao Châu: Xương Tấn là con Ngô Quyền. Ngô Quyền giữ Giao Châu, khi mất rồi, Xương Ngập lên thay. Xương Ngập mất, em là Xương Tấn lên thay, sai sứ đến Lưu Thạnh xin "tiết việt" Lưu Thạnh sai cấp sự trung là Lý Dư đem cờ "tinh" sang để chiêu dụ. Lý Dư đi đến Bạch Châu, Xương Tấn sai người đến ngăn lại, bảo rằng: "Giặc biển làm loạn, đường sá khó đi", thành thử Lý Dư không sang được tới nơi.

Lời cẩn án - Sử cũ chép Nam Tấn vương Xương Văn xin mệnh lệnh chúa Nam Hán; còn Ngũ đại sử chép tên là Xương Tấn: sự việc hơi giống nhau, nhưng tên gọi mỗi đằng một khác. Có lẽ bấy giờ Xương Văn đổi tên là Xương Tấn để giao thiệp với nhà Nam Hán, mà người chép Ngũ đại sử ở đương thời không biết được rành mạch tường

tận nên mới trái ngược nhau như thế. Việc này thuộc về nước ta, nên theo Sử cũ là phải. Đến như Sử cũ chép chúa Nam Hán bấy giờ là Lưu Xưởng, có lẽ vì chưa khảo kỹ chăng. Vì xét: Lưu Xưởng nối ngôi nhằm đời Chu Thế Tông năm Hiển Đức thứ 5 (958), thì năm Hiển Đức thứ 1 (954) Lưu Thạnh vẫn còn làm chúa Nam Hán. Năm Ất Sửu (965). (Ngô, Nam Tấn vương năm thứ 15; Tống, Thái tổ; năm Kiền Đức thứ 3).

Nam Tấn vương Xương Văn đi đánh Thái Bình, mất tại trận.

Nam Tấn vương đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình. Quân đến nơi, cắm thuyền, lên bộ đánh nhau. Nam Tấn vương bị trúng tên nỏ mai phục bắn chết! Trị vì được 15 năm.

Theo Sử ký của Ngô [Thì] Sĩ, khi bấy giờ có người quận Thao Giang là Chu Thái quật cường không thần phục. Nam Tấn vương thân đi đánh, chém được Chu Thái. Do trận thắng ấy, Nam Tấn vương quen mui sinh kiêu, nên mới mắc nạn về việc đi đánh hai thôn này.

Lời bàn của Ngô Sĩ Liên - Nam Tấn nhà Ngô dùng chính nghĩa trừ kẻ tàn bạo, lấy lại được cơ nghiệp cũ. Công việc ấy cũng đã yên ủi vong linh tiên tổ mình, làm nguôi lòng bực tức của quỷ thần, của nhân dân. Thế mà, chỉ vì hiền lành nhù nhờ, đã không trừng trị Tam Kha về tội cướp nước, lại còn gây ra chiến tranh bẩn thỉu ở Thái Bình, cuối cùng tự rước lấy tai nạn, thật đáng tiếc! Nhà Ngô mất. Ngô vương Quyền khởi lên năm Kỷ Hợi, mất năm Giáp Thìn, được 6 năm (939- 944); Nam Tấn Xương Văn từ năm Tân Hợi đến năm Ất Sửu, được 15 năm (951-965). Cộng tất cả là 21 năm

Năm Bính Dần (966). (Tống, năm Kiền Đức thứ 4).

Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều, Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động, cùng với thổ hào các huyện ấp tụ tập quân đánh lẫn nhau.

Từ khi Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, thổ hào các nơi đua nhau nổi dậy. Xương Văn tuy lấy lại được nước, nhưng chính sự cẩu thả, không thể thống nhất được; đến khi đi đánh Thái Bình, không được, bị chết trận, từ đó trong nước rối loạn. Một viên tướng người họ Ngô là Ngô Xương Xí tụ tập quân giữ Bình Kiều. Nha tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang. Thổ hào các nơi khác cũng nổi lên mỗi người giữ một nơi, ai cũng xưng hùng trưởng. Sau Tiên Hoàng nhà Đinh nổi lên, dẹp yên được cả, từ đấy giang sơn mới thống nhất.

Trước kia, thổ hào các nơi nổi lên như sau:

− Trần Lãm, tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải khẩu;

− Kiểu Công Hãn tự xưng là Kiểu Tam Chế, giữ Phong Châu;

− Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình, giữ Nguyễn Gia Loan ở Tam Đái;

− Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (có chỗ chép là Giao Thủy).

− Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại;

− Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, giữ Tiên Du;

− Lữ Đường tự xưng là Lữ Tá Công, giữ Tế Giang;

− Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt;

− Kiểu Thuận tự xưng là Kiểu Lệnh Công, giữ Hồi Hồ;

− Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu.

Các thổ hào ấy thôn tính lẫn nhau. Đến đây, bọn Ngô Xương Xí và Đỗ Cảnh Thạc lại chiếm giữ Bình Kiều và Đỗ Động, trước sau tất cả 12 sứ quân.

Lời cẩn án - Sử cũ chép "Ngô sứ quân1 gồm 2 năm", để kế tiếp vào thế thứ Nam Tấn vương, vì Sử cũ nhận rằng sứ quân Ngô Xương Xí là con Ngô Xương Ngập. Nhưng nay xét: sau khi Nam Tấn vương mất, Xương Xí chiếm giữ Bình Kiều, thế lực rất yếu ớt, không khác gì các sứ quân ở các nơi khác; cho nên đem liệt cả vào một hàng sứ quân. Lại xét: Sử cũ chép Nam Tấn mất rồi, mười hai sứ quân đua nhau nổi lên, bắt đầu chép Ngô Xương Xí, cuối cùng chép Trần Minh Công; dưới đoạn ấy chép tiếp Đinh Bộ Lĩnh tự xưng Vạn Thắng vương rồi kể lại chuyện Bộ Lĩnh đi theo Trần Minh Công, khi Minh Công mất mới đứng quản lĩnh quân đội thay. Xét kỹ ra, thì ngay từ năm thứ nhất đời Nam Tấn, đã thấy có chép "Bộ Lĩnh giữ Hoa Lư, Nam Tấn vương và Thiên Sách vương đến đánh không được". Vậy thì Trần Minh Công khởi binh phải ở vào trước khi Xương Văn chưa lấy lại được nước. Cứ thế mà suy ra, mười hai sứ quân chiếm giữ các huyện ấy phải có kẻ trước kẻ sau, không giống nhau, chứ không phải đến khi Nam Tấn vương mất rồi, mười hai sứ quân mới đồng thời nổi dậy. Nhưng Sử cũ vì không biết rõ năm tháng của từng sứ quân, nên mới nói tổng hợp ở cả một chỗ ấy đấy thôi. Nay không có văn kiện chép rõ có thể chứng thực được, nên hãy xin ghi để xét sau. Lời chua - Ngô Xương Xí: Con Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập.

Bình Kiều: Chưa rõ ở đâu.

Đỗ Động Giang: Sông Đỗ Động, phát nguyên từ các đầm lớn ở xã Đàn Viên thuộc huyện Thanh Oai, chảy qua các xã Sinh Quả, Ức Lý, đi khuất khúc đến xã Thượng Cung, huyện Thượng Phúc, thì hợp với sông Nhuệ. Sử ký của Ngô [Thì] Sĩ chua: "Bây giờ ở làng Bảo Đà huyện Thanh Oai còn có vết cũ thành của sứ quân"214 . Có thuyết cho rằng Đỗ Động Giang là một tên khác của Nhuệ Giang, thế là lầm.

Bố Hải Khẩu: Tên đất. Năm Thiên Thành thứ 3, đời Lý Thái Tông, nhà vua đi Bố Hải Khẩu, cày ruộng tịch điền. Theo Nam Định tỉnh sách215 , xã Kỳ Bố, thuộc huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, là nơi trước kia sứ quân Trần Lãm tụ tập quân đóng giữ. Bấy giờ chỗ ấy còn là cửa biển, nên gọi là Bố Hải Khẩu.

Phong Châu: Xem đời Hùng Vương (Tb.I, 1-2). Sơn Tây tỉnh sách216 có chép ở xã Phù Lập, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, có vết thành sứ quân, tức là thành của Kiểu Tam Chế đã đắp.

Tam Đái: Tên Châu. Bây giờ là phủ Vĩnh Tường, xưa thuộc Phong Châu.

Nguyễn Gia Loan: Tên núi. Theo Sổ địa danh tỉnh Sơn Tây217 , núi ấy còn có tên gọi là núi Độc Nhĩ và tên gọi nữa là Biện Sơn, ở xã Vĩnh Mỗ huyện Yên Lạc là nơi trị sở của sứ quân Nguyễn Khoan khi giữ Tam Đái vì thế gọi là Nguyễn Gia Loan.

Đường Lâm: Tên xã. Xem thuộc Đường, năm Trinh Nguyên thứ 7 (Tb.IV, 26).

Nhật Khánh: Người họ Ngô Quyền, bị Đinh Tiên Hoàng dẹp yên được. Việc này xem năm Thái Bình thứ 10, đời Đinh Tiên Hoàng (Chb.I, 11).

Thủ Tiệp: Còn một tên hiệu nữa là Ba An quân, mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm (Lôi Công). Đến khi khởi binh, Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, đóng giữ huyện Tiên Du, sau lấy cả Vũ Ninh, tự xưng là Vũ Ninh vương, không rõ là người ở xứ nào.

Tiên Du: Tên huyện. Bây giờ thuộc phủ Từ Sơn218 , tỉnh Bắc Ninh.

Siêu Loại: Tên huyện.

Tế Giang: Tên huyện xưa, bây giờ là Văn Giang219 , đều thuộc phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh.

Tây Phù Liệt: Tên đất. Bây giờ là xã Tây Phù Liệt thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Hồi Hồ: Thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Sơn Tây. Cẩm Khê xưa là Hoa Khê. Theo Sổ địa danh tỉnh Sơn Tây , ở xã Trương Xá thuộc Cẩm Khê, có vết cũ thành của sứ quân Kiểu Công.

Đằng Châu: Tên đất. Nhà Trần gọi là Khoái Lộ, nhà Lê gọi là Khoái Châu, đều là đất này cả. Bây giờ ở xã Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, còn có đền thờ Phạm sứ quân.

Trần Lãm, Kiểu Công Hãn, Nguyễn Khoan, Lý Khuê, Lữ Đường, Nguyễn Siêu, Kiểu Thuận, Phạm Bạch Hổ: Đều không rõ người ở đâu.

Năm Đinh Mão (967). (Tống, năm Kiền Đức thứ 5).

Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh và dẹp yên được sứ quân các bộ, tự xưng là Vạn Thắng vương.

Thế lực quân đội của Bộ Lĩnh mỗi ngày một mạnh, đánh đâu được đấy. Lại phá được đám giặc ở Đỗ Động Giang. Các bộ đều dẹp yên được cả. Quan lại và nhân dân các châu các phủ không ai không quy phục.

Theo Ngũ đại sử, năm Đại Bảo thứ 8 đời Lưu Xưởng , Xương Văn ở Giao Châu mất (965), người giúp việc là Lữ Xử Bình cùng với thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu tranh nhau lên làm vua. Đinh Liễn đem quân đánh phá được. Lưu Xưởng cho Đinh Liễn làm tiết độ sứ Giao Châu.

Theo sách Thập quốc Xuân thu của Ngô Nhậm Thần nhà Thanh, thì năm Đại Bảo thứ 3 đời Hậu Chúa Nam Hán Lưu Xưởng, Đinh Bộ Lĩnh giữ công việc Giao Chỉ, hiệu là Đại Thắng vương. Trước kia, Ngô Xương Văn mất, tướng tá của Xương Văn là Lã Xử Bình cùng với thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu gây loạn, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn đánh bại Xử Bình, được dân chúng suy tôn làm vua.

Lời bàn của Ngô Sĩ Liên - Theo khí vận (tuần hoàn) của trời đất, bĩ tắc mãi tất có lúc hanh thông. Xem như ở Trung Quốc, sau những loạn lạc về thời Ngũ Đại (907- 959) thì có Thái tổ nhà Tống nổi lên; ở nước Nam ta, sau những cuộc tranh giành của Mười hai sứ quân thì có Đinh Tiên Hoàng trỗi dậy. Những việc đó không phải là ngẫu nhiên, mà chính là khí vận do trời định đoạt. Lời cẩn án - Nay xét: Đem việc chép về nhà Đinh trong Ngũ đại sử và Thập quốc Xuân thu so với Sử cũ của ta thì thấy hơi khác: năm Đại Bảo thứ 8 đời Lưu Xưởng (965) tức là năm Kiền Đức thứ 3 nhà Tống (965), những cũng xin chép cả, để giúp việc tra cứu. Đây trở lên, từ năm Nhâm Ngọ, thuộc Đường, năm Hàm Thông thứ 3 (862) đến năm Đinh Mão, ngang với nà Tống năm Kiền Đức thứ 5 (967), cộng một trăm linh sáu năm.

(Hết phần Tiền biên)

Chính Biên

Quyển thứ I

Từ Mậu Thìn (968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 đến hết Đinh Mùi (1007), Lê Long Đĩnh năm Ứng Thiên thứ 14, gồm 40 năm (968-1007).

Mậu Thìn (968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 (Tống, Thái tổ, năm Khai Bảo thứ 1).

Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế, quốc hiệu là Đại Cồ Việt (không rõ tháng nào).

Ngài, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, cha là Công Trứ, mẹ là Đàm thị. Công Trứ, trước kia, làm nha tướng của Dương Diên Nghệ, quyền tạm chức Thứ sử Hoan Châu , sau theo Ngô Vương, vẫn làm chức cũ. Khi Công Trứ mất rồi, ngài hãy còn nhỏ, Đàm thị đưa về ở động núi. Chăn trâu ngoài nội, chơi với đám trẻ con, ngài được chúng chịu phục cả. Hễ ngài đi đâu, chúng cứ phải tréo tay làm kiệu rước đi, giống như kiệu thật; lại lấy bông lau làm cờ rước kèm hai bên làm như nghi vệ thiên tử. Kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác: đi đến đâu, ở đấy cũng phải phục tùng. Đám thì kiếm củi, thổi cơm; đám thì nộp lương, giúp việc. Mẹ thấy thế, mừng lắm, giết lợn nhà để khao chúng. Khi đã hơi lớn, ngài sai bảo được những người ở ấp lân cận. Phụ lão trong các sách đều bảo nhau rằng: "Chú bé này có độ lượng khác thường, chắc rồi làm nên sự nghiệp kia khác". Họ liền đem con em theo ngài, lập ngài làm trùm, đóng ở sách Đào Úc, ngày ngày đi đánh những sách khác chưa chịu phục.

Bấy giờ có Thúc Dự giữ sách Bông, chống nhau với ngài. Ngài vì quân ít, không địch nổi, thua chạy, qua cầu Đàm Gia. Cầu gẫy, ngài sa lầy. Dự đuổi theo, toan đâm. Bỗng thấy rồng vàng che phủ hai bên, Dự sợ, rút lui. Ngài thu lượm quân gia còn sót, lại đánh: Dự phải hàng.

Hồi ấy phương Nam, phương Bắc đương rối ren. Sứ quân các bộ thay nhau nổi lên, mỗi người xưng hùng một nơi, chia cắt đất nước. Nghe biết Trần Minh Công là người có đức, ngài đến nương tựa, Minh Công sai giữ binh quyền. Khi Minh Công mất, ngài sẵn có quân ấy, giữ luôn Hoa Lư, chiêu mộ thu dùng hào kiệt, thủ hiểm một nơi. Hai vua Nam Tấn và Thiên Sách nhà Ngô đánh mãi không được. Kịp khi nhà Ngô mất, ngài hàng phục được Phạm Phòng Át, phá được Đỗ Động, hạ thành, đánh ấp, đến đâu thắng đấy, được tôn gọi là Vạn Thắng Vương. Dẹp tan mười hai Sứ quân, tự lập làm hoàng đế.

Lời chua - Đại Hoàng: Tên châu, bây giờ là huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình.

Đàm Gia: Tên thôn, bây giờ là xã Điềm Xá, huyện Gia Viễn.

Động Hoa Lư: Xem Nam Tấn Ngô Xương Văn năm thứ 1 (Tb.V, 24-25).

Mười hai Sứ quân: Xem ngang với Tống, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb.V, 27-28).

Đỗ Động Giang: Xem ngang với Tống, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb.V, 29).

Đóng đô ở Hoa Lư.

Nhà vua muốn đóng kinh đô ở thôn Đàm, nhưng vì ở đấy, đất đã chật hẹp, lại không có thế hiểm trở, nên mới dựng kinh đô mới ở Hoa Lư: đắp thành, đào hào, làm cung điện, đặt nghi lễ trong triều.

Bầy tôi dâng tôn hiệu .

Tôn hiệu nhà vua là Đại Thắng Minh hoàng đế.

Đặt vạc, nuôi cọp để ra oai với người có tội.

Nhà vua muốn dùng oai lực để chế trị thiên hạ, mới đặt vạc lớn ở sân, nuôi hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng: "Hễ kẻ nào vi phạm thì bắt bỏ vào nấu trong vạc, hay cho hổ ăn thịt". Ai nấy sợ hãi, không dám phạm pháp.

Lời phê - Đạo trời ưa kẻ khiêm nhường, đạo người răn người tự mãn. Tiên Hoàng nhà Đinh là người vô học, không có mưu mô gì, chỉ quan dữ tợn, kiêu căng, đến nỗi cuối cùng cả hai cha con đều bất đắc kỳ tử, mới được hai đời đã mất! Nhân đức và tàn bạo thật khác nhau hẳn: đáng làm gương chung. Đinh kêu là Vạn Thắng, Tần mong được vạn thế, xe trước xe sau cùng đi một vết, thương thay! Kỷ Tị, năm thứ 2 (969). (Tống, năm Khai Bảo thứ 2).

Tháng 5, mùa hạ. Lập con là Liễn làm Nam Việt vương.

Canh Ngọ, năm Thái Bình thứ 1 (970). (Tống, năm Khai Bảo thứ 3).

Tháng giêng, mùa xuân. Đặt niên hiệu sai sứ sang nhà Tống.

Bấy giờ chúa Nam Hán là Sưởng chống lại nhà Tống. Tống sai đại tướng Phan Mỹ đi đánh. Nhà vua nghe tin, sợ, mới sai sứ sang giao hảo với Tống.

Lập năm Hoàng hậu.

Năm Hoàng hậu: 1) Đan Gia; 2) Trinh Minh; 3) Kiểu Quốc; 4) Cồ Quốc; 5) Ca Ông.

Lời bàn của Lê Văn Hưu - Đinh Tiên Hoàng đã không kê cứu cổ học, bầy tôi lại không ai biết sửa chữa cho, đến nỗi say đắm tình riêng, lập nên một loạt cả năm Hoàng hậu! Sau này, Lê, Lý, nhiều vua cũng bắt chước, làm theo, là do Đinh Tiên Hoàng đầu têu ra đó. Tân Mùi, năm thứ 2 (971). (Tống, năm Khai Bảo thứ 4).

Đặt phẩm cấp cho quan văn, quan võ: Nguyễn Bặc làm Định quốc công; Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư ; Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân.

Lời chua - Đô hộ phủ: Theo Địa lý chí trong Đường thư , nhà Đường đặt Đô hộ phủ, trị sở ở Long Biên; nhà Đinh vẫn để tên cũ ấy đặt quan cai trị.

Sĩ sư: Tên chức quan. Có lẽ phỏng theo tên chức quan coi việc hình phạt của đời Đường, Ngu xưa.

Nguyễn Bặc, Lưu Cơ: Đều là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng.

Lê Hoàn: Người xã Bảo Thái huyện Thanh Liêm .

Ban hiệu Khuông Việt thái sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu.

Nhà vua tôn sùng đạo Phật, mới đặt phẩm cấp cho tăng nhân và đạo sĩ: ban hiệu Thái sư cho Chân Lưu, lại cho Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ , Đặng Huyền Quang làm Sùng chân uy nghi .

Nhâm Thân, năm thứ 3 (972). (Tống, năm Khai Bảo thứ 5).

Sai Nam Việt vương Liễn sang nhà Tống.

Đem biếu sản vật địa phương.

Quý Dậu, năm thứ 4, (973). (Tống, năm Khai Bảo thứ 6).

Sứ nhà Tống sang.

Bấy giờ Nam Việt vương Liễn đi sứ về, nhà Tống sai sứ sang phong nhà vua làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư Tĩnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ. Bài chế văn đại lược nói: "Họ Đinh vốn dòng họ đàn anh, giữ được đất xa, có lòng hâm mộ phong thói văn minh, thường tỏ ý muốn phụ thuộc với Trung Quốc. Nay gặp buổi chín châu đã về một mối, Ngũ Lĩnh đã phẳng lặng thanh bình, họ Đinh sai sứ trèo non vượt bể tới nơi, dâng đồ tiến cống. Đáng khen con biết giữ lễ phiên thần, nên ban cho cha theo lối cắt đất phong tước. Theo cấp bậc, cho được cầm binh quyền, tự chủ trong việc đánh dẹp ở phương xa . Còn về công phú thì sắp xếp vào ngạch "tỉnh phú" . Thế là để khen thưởng người già cả mà có đức hạnh, chứ há có hạn chế trong điển chương pháp độ thường đâu?".

Giáp Tuất, năm thứ 5 (974). (Tống, năm Khai Bảo thứ 7).

Tháng 2, mùa xuân. Tổ chức quân đội trong mười đạo.

Chia trong nước làm mười đạo. Tổ chức quân đội: mỗi đạo mười quân, mỗi quân mười lữ, mỗi lữ mười tốt, mỗi tốt mười ngũ, mỗi ngũ mười người, đều đội mũ "tứ phương bình đính".

Lời chua - Mũ "Bình đính": Làm bằng da, bốn bề khâu giáp lại với nha: trên hẹp, dưới rộng, chóp phẳng.

Mười đạo: Chia đặt thế nào không rõ.

Ất Hợi, năm thứ 6 (975). (Tống, năm Khai Bảo thứ 8).

Mùa xuân. Quy định mũ áo quan văn, quan võ.

Mùa thu. Sứ Tống lại sang.

Bấy giờ nhà vua sai Trịnh Tú đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống. Tống sai hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng với Vương Ngạn Phù đem chế văn sang gia phong cho Nam Việt vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ti Kiểm hiệu Thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đây, hễ sai sứ sang Tống đều cử Đinh Liễn đứng đầu.

Lời phê - Sự thực bấy giờ thế nào thật không rõ được, hoặc giả có điều gì giấu giếm mà như thế chăng? Lời cẩn án - Sử Cương mục tục biên (Trung Quốc) chép rằng: Bộ Lĩnh đề cử con là Liễm làm Tiết độ sứ, rồi lại nhường ngôi cho con. Khi Nam Hán mất, Đinh Liễn vào cống. Sách Đông Đô sự lược chép: Đinh Liễn nối ngôi cha. Lúc nhà Tống bình được đất Lĩnh Nam, Liễn sai sứ xin nội phụ. Có lẽ bấy giờ Tiên Hoàng cầm quyền trị vì trong nước, còn việc bang giao trọng đại thì giao cả cho Đinh Liễn, nhà Tống phong vương cho Đinh Liễn, chừng có ý để Liễn nối ngôi cha; về phần Tiên Hoàng, vì đã xưng Hoàng đế ở trong nước rồi, nên cũng không thắc mắc về chuyện đó chăng? Lời chua - Trịnh Tú: Người châu Đại Hoàng.

Bính Tí, năm thứ 7 (976). (Tống, Thái Tông năm Thái Bình hưng quốc thứ 1).

Mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.

Sai Trần Nguyên Thái đem biếu sản vật địa phương.

Đinh Sửu, năm thứ 8 (977). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 2).

Sai sứ sang Tống.

Mừng việc Tống Thái Tông (976-997) lên ngôi.

Mậu Dần, năm thứ 9 (978). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 3).

Tháng giêng, mùa xuân. Động đất.

Lập con nhỏ là Hạng Lang làm Thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ vương.

Tháng hai. Mưa đá.

Lời chua - Mưa đá: Mưa thành băng; bởi vì khí dương bị khí âm lấn lướt, không dung nạp được nhau, nên tan ra thành mưa đá.

Tháng 6, mùa hạ. Hạn hán.

Lời bàn của Nguyễn Nghiễm, người làng Tiên Điền: Về việc Tiên Hoàng lập Hạng Lang, trước đó thì có động đất, sau đó thì có mưa đá, có hạn hán. Trời kia răn bảo trờ trờ ra đấy; thế mà cứ coi làm thường, không sớm tỉnh ngộ! Vậy, muốn không mất, phỏng được chăng? Kỷ Mão, năm thứ 10 (979). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 4).

Mùa xuân. Nam Việt vương Liễn giết Thái tử Hạng Lang.

Liễn là con trưởng, khó nhọc mà có công to; khi nhà vua đã được nước, Liễn được phong là Nam Việt vương lại từng nhận tước phong của Tống. Khi có Hạng Lang, nhà vua tư vị cưng chiều, lập làm thái tử. Vì thế, Liễn bất bình, sai người ngầm giết Hạng Lang.

Tháng 10 mùa đông. Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết nhà vua và Nam Việt vương Liễn. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc bắt được Đỗ Thích giết đi, rước Vệ vương Toàn lên ngôi.

Trước kia, Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm ở trên cầu, bỗng thấy sao sa vào miệng, tự phụ là điềm lạ, manh tâm làm điều vượt phận mình. Đến đây, nhân dịp nhà vua đêm ăn yến, say rượu, nằm ở trong sân cung cấm, bèn giết nhà vua luôn với Nam Việt vương Liễn. Bấy giờ sự lùng bắt giặc gắt gao quá. Đỗ Thích nằm núp ở lòng máng trong cung, đã hơn ba ngày, khát lắm, gặp trời mưa, thò tay ra hứng nước uống. Cung nữ trông thấy, chạy báo Nguyễn Bặc. Nguyễn Bặc bắt lấy Thích, chém chết. Rồi cùng bọn Đinh Điền, Lê Hoàn rước Vệ vương Toàn lên ngôi; truy tôn nhà vua là Tiên Hoàng đế.

Đinh Tiên Hoàng ở ngôi 12 năm, thọ 56 tuổi.

Lời chua - Đỗ Thích: Người Đại Đê thuộc Thiên Bản .

Đồng (mộc bên chữ "đồng" là cùng) Quan: Sử của Ngô [Thì] Sĩ chép là Đồng (chấm thủy bên chữ "đồng" là trẻ con) Quan. Bây giờ không biết ở đâu.

Táng ở sơn lăng Hoa Lư.

Lời cẩn án - Về việc an táng Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành . Sử cũ đều chép táng ở sơn lăng Trường Yên. Nay theo Ninh Bình sách lăng Tiên Hoàng ở núi Mã Yên thuộc xã Trường Yên Thượng, lăng Đại Hành ở núi Phẩm Sơn thuộc xã Trường Yên Hạ. Thế thì hai xã Trường Yên tức là đất Hoa Lư, cố đô nhà Đinh, nhà Lê; đến niên hiệu Thuận Thiên thứ 1 (1010), nhà Lý mới đổi Hoa Lư làm phủ Trường Yên. Vậy tên gọi "Trường Yên" ở thời Đinh, Lê chưa có . Sử cũ chép thế thì lầm, nay xin đính chính. Tôn mẹ là Dương thị làm Hoàng thái hậu.

Thập đạo tướng quân Lê Hoàn tự xưng là Phó vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Phạm Hạp dấy quân đánh Lê Hoàn, không được, đều tử tiết.

Nhà vua nối ngôi, mới lên sáu tuổi. Bọn Nguyễn Bặc đều là đại thần phụ chính; còn Lê Hoàn trong tay giữ cả binh quyền, tự do ra vào nơi cung cấm. Thái hậu phải lòng Hoàn, rồi cùng nhau tư thông, cho Hoàn quyền tạm làm công việc thay vua như Chu Công khi trước. Lê Hoàn cậy có Thái hậu cưng yêu, không kiêng sợ chi cả. Bọn Nguyễn Bặc bàn với nhau: "Lê Hoàn sẽ bất lợi cho "nhụ tử" ; chúng ta chịu ơn dày của nước, nếu không tính tước đi, giữ cho xã tắc được yên thì còn mặt mũi nào trông thấy Tiên đế ở suối vàng nữa?". Họ liền cùng nhau khởi binh, chia hai đường thủy bộ cùng tiến,

định kéo thẳng đến kinh đô để giết Lê Hoàn. Thái hậu nghe tin, bảo Lê Hoàn: "Bọn Bặc nổi loạn, quan gia hãy còn thơ ấu, cáng đáng sao nổi giữa lúc quốc gia lắm nạn này! Ông nên tính đi". Lê Hoàn thưa: "Tôi đây làm phó vương, quyền giữ việc nước, dù sống chết cũng xin gánh lấy trách nhiệm". Hoàn liền sắp xếp quân đội, đánh nhau với Nguyễn Bặc, Đinh Điền ở Ái Châu. Bặc, Điền thua rồi, lại đem quân thủy ra đánh. Lê Hoàn theo chiều gió, phóng lửa đốt cả thuyền chiến: Đinh Điền bị chết tại trận; Hoàn bắt được Nguyễn Bặc, đưa về kinh đô. Trước mặt Nguyễn Bặc, Hoàn kể tội: "Đấng Tiên đế mắc nạn, thần và người đều căm giận, ngươi lại nhân lúc tang tóc rối ren, đứng đầu làm giặc! Đạo tôi con đâu có như thế?". Rồi Hoàn giết hại Bặc. Nguyễn Bặc, Đinh Điền đã chết rồi, quân của Phạm Hạp mất tinh thần, chạy lên Bắc Giang; Lê Hoàn đem quân đuổi theo, bắt đưa về kinh đô, giết chết.

Lời cẩn án - Sử cũ chép Nguyễn Bặc, Đinh Điền cùng nhau dấy quân, đinh kéo đến thẳng kinh đô để giết Lê Hoàn, nhưng địa điểm dấy quân ở đâu thì bỏ qua không chép. Nay xét: Lê Hoàn với Bặc, Điền đánh nhau ở Tây Đô, Tây Đô tức là Ái Châu. Hoặc giả khi đã bàn định về việc giết Hoàn, họ liền đến Ái Châu khởi binh, mà Sử cũ bỏ sót chăng? Vậy hãy để lại, đợi khảo sau . Lời chua - Ngoại giáp: Tên chức quan.

Đinh Điền: Người động Hoa Lư , châu Đại Hoàng.

Phạm Hạp: Người Nam Sách : bây giờ là phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

Bắc Giang255 : Tức Kinh Bắc. Xem Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 10 (Chb.XXI, 28-29).

Ngô Nhật Khánh đem người Chiêm Thành vào cướp.

Nhật Khánh là dòng dõi Tiên chúa Ngô Quyền, trước kia xưng là An Vương, cùng với mười hai Sứ quân giữ đất, tranh hùng. Đinh Tiên Hàng đánh dẹp được Nhật Khánh rồi, lập mẹ y làm hoàng hậu, lấy em gái y cho Nam Việt vương Liễn, lại gả công chúa cho y. Nhưng Nhật Khánh vẫn không hết oán giận, bèn đem vợ trốn đi. Khi đến cửa biển Nam Giới, Khánh rút dao đeo bên mình ra rạch vào mặt vợ mà kể: "Cha mày lừa gạt hiếp tróc mẹ con ta. Ta đây há vì cớ mày mà quên được tội ác cha mày sao? Thôi, mày trở về, một mình ta đi, ta cầu người nào cứu được ta đây!". Đoạn, Nhật Khánh chạy sang Chiêm Thành. Đến đây, nghe tin Tiên Hoàng mất rồi, Nhật Khánh dẫn người Chiêm đi đường biển vào cướp. Khi qua cửa Đại Nha và cửa Tiểu Khang, gặp cơn phong ba, thuyền chìm đắm mất cả. Nhật Khánh chết đuối. Chúa Chàm (Chiêm Thành) may được thoát nạn, bèn thu thập những quân còn lại, rút về.

Lời chua - Nhật Khánh: Người xã Đường Lâm ; bây giờ là xã Cam Lâm thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.

Chiêm Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tb.III, 20-21).

Cửa biển Nam Giới: Ở chổ giáp giới hai huyện Thiên Lộc257 và Thạch Hà.

Cửa Đại Nha: ( á bên chữ điểu ): Tức cửa Đại Nha ( nha bên chữ điểu ). Xem Lý Hậu đế năm thứ 1 (Tb.IV, 13).

Cửa Tiểu Khang: Ở địa phận huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; bây giờ là cửa Kiền (cũng gọi cửa Cờn hoặc cửa Quèn).

Canh Thìn năm thứ 11 (980). (Đế Toàn, vẫn theo niên hiệu Thái Bình. Từ tháng 7 năm Thái Bình thứ 11 trở về sau là triều Lê, Đại Hành hoàng đế, năm Thiên Phúc thứ 1. - Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 5).

Tháng 7, mùa thu. Dương thị sai Lê Hoàn đem quân ra chống quân Tống. Lê Hoàn liền tự xưng là Hoàng đế, truất bỏ Đế Toàn lại làm Vệ vương. Nhà Đinh (968-980) mất.

Trước đây, viên quan giữ Ung Châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thư nói bên Giao Châu đương có nội loạn, ta có thể đem một ít quân sang cũng đủ lấy được, xin cho mình về triều đình để trình bày về tình hình này. Vua Tống mừng lắm, toan cho chạy ngựa trạm triệu Nhân Bảo về ngay. Lư Đa Tốn nói: "Nước kia bên trong rối loạn, đó là cơ trời làm mất. Ta nên xuất kỳ bất ý mà đánh úp. Thế gọi là "tiếng sét đánh mau, che tai không kịp". Nếu vời Nhân Bảo về trước, mưu sẽ tất lộ; kẻ kia biết trước, chuẩn bị đề phòng, thì ta chưa dễ đã lấy được. Chi bằng mật sai Nhân Bảo lo liệu việc ấy, rồi sẽ xuất quân đánh tràn sang, thế tất ăn chắc mười mươi". Vua Tống cho là pải, liền cho Nhân Bảo làm chức Giao Châu thủy lục chuyển vận sứ, bọn Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực đều cho làm chức Binh mã đô bộ thự, hẹn ngày cùng kéo quân sang xâm.

Viên quan giữ Lạng Châu đem sự đó tâu lên, Dương hậu sai Lê Hoàn lựa tuyển dũng sĩ để kháng chiến: cho Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân, bày mưu kế đem quân ra đánh. Cự Lạng và các tướng đều mặc quân phục, vào thẳng điện đình, bảo mọi người rằng: "Nay, thưởng người có công mà phạt kẻ không vâng mạng, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công lao, thì ta biết cho? Chi bằng trước hãy tôn ngay Thập đạo tướng quân lên làm thiên tử, sau sẽ ra quân?". Quân sĩ đều tung hô "vạn tuế". Dương hậu thấy ai cũng một lòng hả hê mến phục, liền sai lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn rồi chính Dương hậu khuyên mời Lê Hoàn làm vua. Hoàn bấy giờ mới lên ngôi, đổi niên hiệu, giáng chức Đế Toàn xuống làm Vệ vương như cũ.

Lời phê - Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu? Lời cẩn án - Sử Cương mục (Trung Quốc) nêu lệ chép năm tháng: Khi thiên tử nối đời nhau, thì cứ ở dưới dòng viết tên thụy và tên hiệu bằng chữ đỏ. Chỗ "lời chua" trong Sử ấy nói rằng: "Về sau, nếu vua nào bị phế, không có thụy hiệu, thì chỉ chép là "Đế mỗ", chứ không dùng đến cái tước do người sau đã biếm truất mà đặt cho. Thí dụ như Hải Tây Công nhà Tấn bị Hoàn Ôn phế truất Cương mục chép chữ lớn là "Đế Dịch".

Phép chép thẳng tên húy như thế là vì thấy không có tên thụy. Đó là lệ ngoại của Cương mục. Thế mà Sử cũ (của ta), đối với Đinh Toàn chép là "Phế đế", nay xin sửa lại, chép là Đế Toàn, cho hợp ý nghĩa và thể lệ trong sử Cương mục trên . Lời chua - Ung Châu: Theo Thanh Nhất thống chí , Ung Châu thuộc về Quảng Tây thống bộ.

Hầu Nhân Bảo: Sử Cương mục tục biên (Trung Quốc) chép Nhân Bảo là chồng em gái Triệu Phổ. Lư Đa Tốn có hiềm khích với Triệu Phổ, bèn bẩy Nhân Bảo ra làm Tri châu Ung Châu, chín năm không được đổi đi nơi khác. Nhân Bảo sợ rằng nay lần mai lữa sẽ chết già ở đất Lĩnh Ngoại, bấy giờ mới dâng thư nói việc Giao Châu, xin về tận triều đình tỏ bày sự trạng.

Giao Châu: Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb.IV, 19).

Lạng Châu: Nhà Lê, nhà Lý đặt làm lộ; nhà Trần gọi là Lạng Giang lộ; bây giờ là tỉnh Lạng Sơn.

Phạm Cự Lạng: Em Phạm Hạp.

Đây trở lên, nhà Đinh từ Tiên Hoàng, Mậu Thìn, năm thứ một (đến năm thứ ba mới đặt niên hiệu là Thái Bình) đến Đế Toàn, Canh Thìn, vẫn gọi là niên hiệu Thái Bình năm thứ 11, cộng hai đời vua, 13 năm (968-980).

Truy tôn cha là Mịch là Trưởng Hưng vương, mẹ là Đặng thị làm Hoàng thái hậu.

Trước kia, mẹ ngài là Đặng thị đang có thai, chiêm bao thấy bụng nở ra hoa sen, rồi kết thành nhân sen ngay. Đặng thị đem chia cho mọi người, riêng mình lại không ăn. Lúc tỉnh dậy, lấy làm lạ lắm. Kịp khi sinh con, thấy con mặt mũi hình dáng khác thường, Đặng thị nói với người ta rằng: "Thằng cháu này mai sau chắc sẽ làm nên sang cả, chỉ hiềm tôi không kịp hưởng lộc thôi!". Được vài năm, mẹ mất, rồi cha cũng chết. Viên quan sát họ Lê (không rõ tên) ở Ái Châu thấy ngài, cho là khác thường, nuôi làm con. Gặp tiết trời đông rét mướt, ngài nằm phục như hình cối úp: đang đêm, sáng rực cả nhà, có con rồng vàng ấp ở trên. Viên quan sát họ Lê, tỏ ra lấy làm lạ. Lớn lên, ngài giúp việc Nam Việt vương Liễn, càng tỏ ra lỗi lạc, có chí lớn. Tiên Hoàng khen là người có mưu trí và sức mạnh, giao cho cai quản hai nghìn quân, dần thăng đến chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền chỉ huy sứ. Đến bấy giờ cướp ngôi nhà Đinh, truy tôn cha mẹ.

Lời cẩn án - Chu Vũ vương dấy nghiệp vương thì truy tôn Thái vương, Vương Quý và Văn vương làm bậc vương. Tống Thái Tổ xưng hoàng đế thì tôn Hi Tổ và Dực Tổ làm bậc đế. Lê Đại Hành đã xưng đế, thế mà chỉ tôn cha làm vương, còn từ ông tổ giở lên đều không được dự: thực trái thờng quá lắm! Huống chi tôn cha làm vương mà mẹ lại làm Hoàng thái hậu: đảo ngược đến như thế! Về sau, Lý Thái Tổ tôn cha làm Hiển Khánh vương, mẹ là Minh Đức thái hậu, cũng là do Lê Đại Hành nêu ra trước. Lời chua - Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb.XXI, 20-21).

Tháng 10, mùa đông, sai sứ sang nhà Tống.

Bấy giờ vua Tống hạ chiếu xuất quân sai Lư Đa Tốn đưa thư sang ta khuyên dụ, đại lược nói: "Rừng rực xứ nóng, khói tỏa, mù hun, ta hóa ra áng mây của vua Nghiêu, tưới cơn mưa ngọt. Sùng sục chướng khí, mây đốt, đá nung, ta gảy khúc đàn của vua Thuấn, nổi cơn gió mát" . Lại nói: "Hiện nay ta

đã sửa sang binh xa và bộ tốt, hiệu lệnh chiêng trống rất nghiêm minh; nếu vâng theo giáo hóa thì được tha; nếu chống lại mệnh lệnh thì sẽ bị trị tội".

Nhà vua tiếp được thư ấy, sai nha hiệu Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ đem thư sang nhà Tống, nói trá là tờ biểu của Đinh Toàn cầu nối ngôi cha, xin ban cho mệnh lệnh chính thức. Làm vậy, cốt để hòa hoãn tình thế.

Bấy giờ Tống đã dấy quân, nên không ưng thuận. Tống sai Trương Tôn Quyền đem thư sang dụ rằng: "Họ Đinh truyền nối đã được ba đời, trẫm muốn cho Đinh Toàn làm thống súy, khanh thì làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ con và thân thuộc y sang đây. Đợi khi vào chầu, tất sẽ được ban điển lể ưu hậu. Khanh sẽ được trao cờ tiết và cây việt. Có hai đường đấy, khanh nên xét kỹ mà chọn lấy một". Nhà vua đều ỉm đi, không trả lời.

Tân Tị (981). Lê Đại Hành hoàng đế năm Thiên Phúc thứ 2 (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 6).

Tháng 3, mùa xuân. Quân Tống sang xâm lược. Nhà vua tự làm tướng, đánh bại quân địch.

Bấy giờ quân Tống chia đường sang xâm lấn: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo đến Lạng Sơn; Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng. Nhà vua tự làm tướng, ra kháng chiến: sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan quân ta đánh bất lợi: hai trăm thuyền chiến đều bị địch lấy mất cả. Hầu Nhân Bảo đem tiền quân tiến lên trước. Tôn Toàn Hưng đóng quân lại, không đi; Nhân Bảo thường phải thúc giục. Khi quân Tống kéo đến sông Chi Lăng, nhà vua sai người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo, đem chém. Bọn Lưu Trừng rút lui. Khâm Tộ nghe tin, trút quân quay về. Nhà vua lại đem các tướng truy kích: quân Khâm Tộ thua to, chết mất quá nửa. Bên ta bắt được bộ tướng của địch là bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, điệu về kinh đô. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem tình hình thua trận tâu bày về triều, vua Tống xuống chiếu rút quân về.

Lời chua - Lạng Sơn: Xưa là bộ Lục Hải; đời Hán thuộc về Giao Chỉ; đời Đường thuộc về Giao Châu; Đinh chia làm Lạng Sơn đạo, lại gọi là Lạng Châu; Lê, Lý đặt làm lộ; Trần gọi là Lạng Giang lộ; Lê gọi là Lạng Sơn thừa tuyên. Bây giờ là tỉnh Lạng Sơn.

Sông Bạch Đằng: X. thuộc Tấn, Cao Tổ, năm Thiên Phúc thứ 3 (Tb.5, 19).

Chi Lăng: Tên xã, thuộc châu Ôn, phủ Trường Khánh, ở đầu địa giới Lạng Sơn.

Sông Chi Lăng: Con sông ở xã Chi Lăng.

Tây Kết: Không rõ ở đâu.

Bầy tôi dâng tôn hiệu .

Nhà vua đã thắng được quân Tống, trong nước đâu đấy yên ổn. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Minh Kiền ứng vận thần vũ thăng bình chí nhân quảng hiếu hoàng đế.

Nhâm Ngọ, năm thứ 3 (982). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 7).

Lập Đinh thái hậu là Dương thị làm Đại thắng minh hoàng hậu.

Dương thị, trước kia lấy Đinh Tiên Hoàng, sinh ra Vệ vương Toàn. Toàn nối ngôi, hãy còn nhỏ tuổi. Thái hậu tư thông với nhà vua, mưu việc chuyển dời ngôi nhà Đinh. Đến đây lập Dương thị làm Đại thắng minh hoàng hậu. Lại lập Phụng Kiền chí lý hoàng hậu, Thuận Thánh minh đạo hoàng hậu, Trịnh quốc hoàng hậu và Phạm hoàng hậu, cộng năm Hoàng hậu.

Lời bàn của Ngô [Thì] Sĩ - Đại thắng minh là tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ mình: Thật là không còn kiêng nể chút gì cả! Sử sách ghi chép, để cười nghìn thu! Sai sứ sang nhà Tống.

Nhà vua sai sứ đi cống, nói thác là sứ giả của Đinh Toàn, vì sợ quân Tống lại sang.

Nhà vua tự mình cầm quân đi đánh nước Chiêm Thành: cả phá được quân địch.

Trước đây, nhà vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm Thành giam giữ. Nhà vua nổi giận; bèn sửa sang thuyền chiến và đồ giáp binh, tự làm tướng, đi đánh, chém được tướng nước ấy là Bề Mi Thuế tại trận và bắt được tù binh rất nhiều. Chúa Chàm bỏ thành chạy. Ta bắt được trăm người cung nữ và vàng bạc châu báu kể có háng vạn, san phẳng cả thành trì , phá hủy cả tông miếu ; vừa đầy một năm mới về kinh đô.

Lời chua - Chiêm Thành: Tức nước Lâm Ấp. Xem Tiền biên, thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tb III, 20-21).

Đói to.

Quý Mùi, năm thứ 4 (983). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 8).

Mùa xuân. Sai sứ sang Tống.

Sai sứ sang giao hảo với nhà Tống, báo cáo về tin đánh thắng Chiêm Thành.

Sông mới đã đào xong.

Khi nhà vua đi đánh Chiêm Thành, từ núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa: đường núi hiểm trở, khó đi, người ngựa đều nhọc mệt, bèn sai đào con sông mới; đến bấy giờ hoàn thành, công và tư đều được tiện lợi.

Lời chua - Núi Đồng Cổ: Ở xã Đan Nê, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa.

Sông Bà Hòa: Ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bây giờ là sông xã Đồng Hòa.

Giáp Thân, năm thứ 5 (984). (Tống, năm Ung Hi thứ 1).

Tháng 2, mùa xuân. Đúc tiền Thiên Phúc.

Xây điện Bách bảo thiên tuế.

Làm điện ở núi Đại Vân, trang sức bằng vàng bạc, dùng làm nơi vua coi chầu. Phía đông là điện Phong Lưu; phía tây là điện Tử Hoa; bên tả là điện Bồng Lai; bên hữu là điện Cực Lạc. Lại làm lầu Đại Vân và điện Trường Xuân làm chổ ngự tẩm . Bên điện Trường Xuân dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc.

Lời chua - Núi Đại Vân: Ở thành Hoa Lư; bây giờ là núi xã Trường Yên.

Ất Dậu, năm thứ 6 (985). (Tống, năm Ung Hi thứ 2).

Tháng 7, mùa thu. Ngày sinh nhật hoàng đế, đua thuyền.

Lấy tre làm thành núi giả ở trong thuyền gọi là núi "nam sơn", tổ chức cuộc bơi thuyền thi. Từ đấy, năm nào cũng giữ làm lệ thường.

Sai sứ sang Tống.

Bấy giờ nhân dịp có sứ nhà Tống đến nhà vua sai sứ ta đem vàng và ngà voi sang biếu nhà Tống để thỉnh cầu lãnh chức Tiết trấn.

Bính Tuất, năm thứ 7 (986). (Tống, năm Ung Hi thứ 3).

Tháng 8, mùa thu. Tuyển lính thân quân.

Tuyển những người khoẻ mạnh, nhanh nhẹn bổ làm túc vệ gọi là thân quân: đều thích vào trán ba chữ "Thiên tử quân".

Tháng 10, mùa đông. Sứ nhà Tống sang.

Nhà Tống sai tả bổ khuyết là Lý Nhược Chuyết và quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác đem bài chế văn sang phong nhà vua làm kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái uý, An nam đô hộ Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, Kinh Triệu quận khai quốc hầu. Bài chế văn ấy đại lược nói: "...Trước kia Sĩ Nhiếp là người cứng cáp sáng suốt, biến đổi thói tục đất Việt khiến hết thảy đều vào khuôn phép. Úy Đà hết lòng cung kính mềm dẻo, vâng theo chiếu chỉ nhà Hán, không dám trái nghịch. Bây giờ khanh phải vỗ yên bộ lạc man di, để tuyên dương ơn đức của thiên tử". Nhà vua tiếp nhận chế văn ấy với vẻ rất cung kính, thiết đãi sứ giả với lễ rất hậu. Rồi giao trả Tống bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân trước đây ta đã bắt được. Nhà vua lại bảo Nhược Chuyết và Lý Giác: "Chỗ chúng tôi là một nước nhỏ mọn, núi sông khơi diễn, hẻo lánh một nơi, cách thiên triều hàng muôn dặm. Sứ giả đi lại, trèo non vượt suối, chẳng cũng nhọc mệt lắm ru?". Lý Giác thưa: "Bản triều phân phong chư hầu, đất hàng muôn dặm, quận hàng bốn trăm, có chỗ bằng phẳng, cũng có nơi hiểm trở, chứ như một phương này, đã lấy gì làm xa?".

Dùng Từ Mục là Tổng quản giữ việc quân và dân, ban cho tước hầu; Phạm Cự Lạng làm Thái úy.

Lời chua - Tổng quản: Tên chức quan nhà Đường, chuyên giữ quân sự. Nhà Lê phỏng theo phép nhà Đường, đặt chức quan này, lại cho kiêm giữ cả dân sự.

Sai sứ sang Tống.

Sai Ngô Quốc Ân đem sản vật địa phương sang biếu và nói về việc người Chàm là Bồ La Át đem hơn trăm người trong họ sang xin quy phụ nhà Tống.

Lời cẩn án - Sử của Ngô [Thì] Sĩ chép: "Bấy giờ nhà vua mới bình được Chiêm Thành, người Chiêm Thành sợ bị lấn lướt bức bách, nên đem hơn trăm người trong họ cầu xin quy phụ nhà Tống. Nhà đương cục ở Đam Châu đem việc ấy tâu lên triều Tống. Việc này nhà làm sử nhận lầm là do sứ thần nước ta sang Tống tâu bày". Xét chỗ sử của Ngô [Thì] Sĩ này không giống với Sử cũ, nay xin chép cả để làm tài liệu tham khảo. Lời chua - Đam Châu: Tức Đam Nhĩ. Xem Triệu Vương, năm Kiến Đức thứ 1 (Tb.II, 6).

Đinh Hợi, năm thứ 8 (987). (Tống, năm Ung Hi thứ 4).

Mùa xuân. Nhà vua cày ruộng tịch điền .

Ban đầu, nhà vua cày ruộng ở Đội Sơn , được một lọ vàng; sau lại cày ở núi Bàn Hải, được một lọ bạc; do đó đặt tên là "ruộng Vàng, ruộng Bạc".

Lời chua - Đội Sơn: Tên khác gọi là núi Long Đội, ở xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nội .

Núi Bàn Hải: Không rõ ở đâu.

Đâu đấy được mùa cả.

Mậu Tí, năm thứ 9 (988). (Tống, năm Đoan Củng thứ 1).

Sứ nhà Tống sang.

Năm ấy, vua Tống đổi niên hiệu, sai viên ngoại lang bộ Hộ là Nguỵ Tường, trực sử quán là Lý Độ đem bài chế văn sang tiến phong nhà vua tước Khai quốc công. Nhà vua sai sứ sang Tống biếu sản vật địa phương để đáp lễ.

Lời cẩn án - Theo sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng và sách Giao Chỉ di biên, năm Ung Hi thứ 3 (986), Tống phong nhà vua làm kiểm hiệu thái uý Kinh Triệu quận Khai Quốc hầu; đến năm Đoan Củng thứ 1 (988), tiến phong làm Khai Quốc công. Thế là có theo thứ tự từ thấp lên cao. Sử cũ trước thì chép phong Kinh Triệu Quận hầu, ở đây thì chép phong Kiểm hiệu thái uý: Như vậy là lầm. Nay đính chính lại. Kỷ Sửu, năm Hưng Thống thứ 1 (989). (Tống, năm Đoan Củng thứ 2).

Tháng giêng, mùa xuân. Đại xá.

Ban ơn đại xá vì cớ đổi niên hiệu là Hưng Thống.

Lập con là Long Việt làm Nam Phong vương.

Phong con trưởng là Long Thâu làm Kình Thiên đại vương con thứ hai là Ngân Tích làm Đông Thành vương; lập con thứ ba là Long Việt làm Nam Phong vương .

Dương Tiến Lộc đem dân châu Hoan và châu Ái nổi lên làm phản, bị bắt và bị giết chết.

Tiến Lộc, làm chức Quản giáp, vâng mệnh đi thu thuế ở châu Hoan và châu Ái. Nhân đó, Lộc cầm đầu hai châu ấy nổi lên làm phản, rồi xin theo về với nước Chiêm Thành; nhưng người Chiêm Thành không nhận. Nhà vua đem quân đi đánh bắt giết được Tiến Lộc và giết người hai châu ấy không biết bao nhiêu mà kể.

Lời chua - Hoan Châu: Tức Nghệ An.

Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 20-21).

Chiêm Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tb. III, 20-21).

Quản giáp: Tên chức quan.

Canh Dần, năm thứ 2 (990). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 1).

Sứ nhà Tống sang.

Nhà Tống sai Tả chính ngôn là Tống Cảo và Hữu chính ngôn là Vương Thế Tấc đem bài chế văn sang gia phong nhà vua lên chức vị "đặc tiến" . Nhà vua sai chỉ huy sứ Đinh Thừa Chinh đem chu sư sang Thái Bình quân đón sứ nhà Tống, ròng rã nửa tháng trời đến sông Bạch Đằng, cứ theo nước thuỷ

triều mà đi. Khi đến Trường Châu nhà vua ra đón sứ giả ở phía ngoài đô thành, cùng nhau giong cương ngựa đi song song. Đến cửa Minh Đức, nhà vua đón lấy bài chế văn nhưng không lạy, nói vì năm mới rồi, đi đánh giặc Mán, ngã ngựa đau chân. Bọn Tống Cảo tin là thực. Ngày hôm sau, đặt tiệc đãi sứ, nhà vua bảo Tống Cảo rằng: "Đường sá xa khơi, núi sông hiểm trở, sau này nếu có quốc thư, xin cứ giao nhận ở đầu biên giới, khỏi phiền sứ giả đến đây". Tống Cảo đem việc này về tâu, vua Tống ưng thuận.

Theo lời chú giải trong sách Đông tây dương khảo của Trương Nhiếp nhà Minh, Tống Cảo đi sứ về, nói với vua Tống rằng: năm ngoái, đến Giao Châu, Lê Hoàn đem quân và dân bơi thuyền, gióng trống, hò reo; những núi ở gần đô thành thì hư trưng thanh thế: cắm rặt cờ trắng, làm như dáng vẻ bày binh bố trận. Kịp khi đến cửa kinh đô, Lê Hoàn nhận lấy tờ chiếu, nhưng không lạy. Có đưa đến sứ quán con rắn lớn và nói: nếu sứ giả ăn được thì sẽ làm thịt để thết. Lại trói hai con hổ đem đến sứ quán. Sứ giả đều từ chối, không nhận. Ba nghìn quân sĩ của Lê Hoàn đều có thích ở trán ba chữ "Thiên tử quân".

Lời chua - Thái Bình quân: Theo sách Thanh Nhất thống chí , Thái Bình quận, đời Tần, là đất Tượng Quận; đời Hán là huyện Hợp phố; nhà Đường đổi là Liêm Châu; đến Tống, khoảng niên hiệu Thái bình hưng quốc đặt làm Thái Bình quân, qua niên hiệu Hàm Bình lại đặt là Liêm Châu. Bây giờ nhà Thanh vẫn theo tên cũ, cho thuộc Quảng Đông thống bộ.

Bạch Đằng Giang: Xem thuộc Tấn, Cao tổ, năm Thiên Phúc thứ 3 (Tb. V, 19-20).

Trường Châu: Xem thuộc Đường, Cao tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb. IV, 19).

Tân Mão, năm thứ 3 (991). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 2).

Tháng 2, mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.

Sai Đào Cần đem biếu sản vật địa phương.

Nhâm Thìn, năm thứ 4 (992). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 3).

Tháng giêng, mùa xuân. Nhà vua ngự điện Kiền Nguyên xem đèn.

Lập con là Long Đĩnh làm Khai Minh vương.

Bấy giờ các con nhà vua đều theo thứ tự thụ phong, chia ở các châu quận: Khai Minh vương Long Đĩnh ở Đằng Châu; Ngự Man vương Long Đinh ở Phong Châu; Ngự Bắc vương Long Ngận ở Phù Lan; Định Phiên vương Long Tung ở Ngũ huyện giang, Tư Doanh Thành phó vương Long Tương ở Đỗ Động; Trung Quốc vương Long Kính ở Mạt Liên; Nam Quốc vương Long Mang ở Vũ Lũng; Hành quân vương Long Đề ở Cổ Lãm; Phù Đới vưoơng (không rõ tên), con nuôi nhà vua, ở Phù Đái.

Lời chua - Long Đĩnh: Con thứ 5.

Long Đinh: Con thứ 4.

Long Ngận: Con thứ 6.

Long Tung: Con thứ 7.

Long Tương: Con thứ 8.

Long Kính: Con thứ 9.

Long Mang: Con thứ 10.

Long Đề: Con thứ 11.

Đằng Châu: Xem thuộc Tống, năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V, 31).

Phong Châu: Xem Hùng vương (Tb. I, 1).

Phù Lan: Tên trại; nay là xã Phù Vệ thuộc huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương.

Ngũ huyện giang: Ở phía nam huyện Yên Lãng , tỉnh Sơn Tây, sông Ngũ huyện chảy qua huyện Kim Anh và huyện Đông Ngàn , vòng quanh đến huyện Yên Phong và huyện Tiên Du , rồi đổ vào sông Nguyệt Đức .

Tư Doanh Thành: Không khảo được.

Đỗ Động: Xem ngang với nhà Tống năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V, 29).

Mạt Liên: Tên huyện, bây giờ là huyện Tiên Lữ thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Vũ Lũng: Tên châu, thuộc tỉnh Thanh Hóa; nhiều lần phân chia ra sao và lệ thuộc vào đâu, bây giờ không khảo được.

Cổ Lãm: Tên châu; bây giờ là huyện Đông Ngàn thuộc phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Phù Đái: Tên làng; bây giờ là xã Phù Tải thuộc huyện Vĩnh Lại , tỉnh Hải Dương.

Tháng 6, mùa hạ. Thả những người Chiêm Thành bị bắt từ trước về nước.

Thả những người Chiêm ở thành cũ châu Địa Lý cho về châu Ô Lý, tất cả hơn ba trăm sáu mươi người.

Lời chua - Địa Lý: Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chb. III, 29).

Ô Lý: Xưa là đất Việt Thường; đời Tần, thuộc Tượng quận; đời Hán, thuộc Nhật nam; đời Đường, là Cảnh Châu; thời Tống, phía bắc Chiêm Thành gọi là châu Ô Lý. Nhà Trần, khoảng niên hiệu Hưng Long (1293-1313) được chúa Chàm dâng đất này, đổi là Thuận Châu và Hóa Châu. Hồi thuộc Minh, đặt là phủ Thuận Hóa, cho Thuận Châu và Hóa Châu lệ thuộc vào. Nhà Lê đặt làm Thuận Hóa thừa tuyên. Bây giờ huyện Đăng Xương, huyện Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị, và huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền, huyện Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên, ấy là đất Thuận Châu xưa. Huyện Phú Lộc, huyện Phú Vinh thuộc tỉnh Thừa Thiên và huyện Diên Phước (phúc), huyện Hòa Vinh thuộc tỉnh Quảng Nam, ấy là đất Hóa Châu xưa.

Tháng 8, mùa thu. Sai mở đường bộ thông đến châu Địa Lý.

Sai phụ quốc Ngô Tử An đem ba vạn người mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến châu Địa Lý nước Chiêm Thành.

Lời chua - Phụ quốc: Tên chức quan.

Cửa biển Nam Giới: Xem nhà Đinh, năm Thái Bình thứ 10 (Chb. 1, 12).

Quý Tị, năm thứ 5 (993). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 4).

Mồng 1 tháng 2, mùa xuân. Nhật thực.

Sứ nhà Tống sang.

Bấy giờ nhà vua sai sứ sang cống và dâng tờ biển Đinh Toàn nhường ngôi. Vì sờn về nỗi Tôn Toàn Hưng đã bại trận, vua Tống cũng ưng thuận, mới sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem bài chế văn sang phong nhà vua làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, Giao Chỉ quận vương.

Sử Cương mục tục biên (Trung Quốc) chép: Năm Thuần Hóa thứ 4 (993), Lê Hoàn đưa lễ sang cống, phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương. Bài "Phát minh" trong sử trên bàn rằng: Thiên tử sở dĩ được quý, là chỉ vì vâng mệnh trời, đánh giết kẻ phản nghịch. Giao Châu là đất đã do họ Đinh giữ trước. Năm Khai Bảo thứ 6 (973), Đinh Liễn vào cống, vâng mạng chịu phong vương. Vậy thì con cháu nối nghiệp, là theo đúng lễ. Đinh Liễn mất rồi, em là Đinh Toàn nối ngôi. Bộ tướng là Lê Hoàn lừa gạt kiềm chế chủ mình, giành nắm quyền chính. Đó thực là kẻ loạn thần, tặc tử. Đối với pháp luật của vương giả, tất phải tru diệt. Nay vua Tống thấy Lê Hoàn cho sang tiến cống, cũng gia phong cho tước vương. Thế là tước vương ở Giao Chỉ có thể cứ dùng thế lực mà chiếm được, chứ có phải nhận lấy bằng lễ nghĩa đâu! Nếu sau này bầy tôi của Lê Hoàn cũng bắt chước làm theo thói xấu ấy, thì vua Tống lấy gì mà chế trị được? Than ôi! Làm vua mà không nắm được quyền đánh dẹp, thì kẻ loạn thần lấy gì để làm răn chừa! Sử Cương mục (tục biên) , ở trên, chép Lê Hoàn đưa lễ vào cống, đến dưới, chép ban chiếu phong cho tước vương. Thì ra hai bên đều trọng về lợi, chứ không trọng về nghĩa nữa. Công đạo bởi đâu mà giãi tỏ được ru?

Giáp Ngọ, năm Ứng Thiên thứ 1 (994). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 5).

Tháng giêng, mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.

Sai nha hiệu Phí Sùng Đức đem biếu sản vật địa phương.

Chế Cai nước Chiêm Thành vào chầu.

Trước đây, chúa Chàm sai Chế Đông đến dâng sản vật địa phương. Nhà vua trách là vô lễ, gạt đi không nhận, chúa Chàm289 sợ, sai cháu là Chế Cai vào chầu.

Ất Mùi, năm thứ 2 (995). (Tống, năm Chí Đạo thứ 1).

Bính Thân, năm thứ 3 (996). (Tống, năm Chí Đạo thứ 2).

Tháng 2, mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.

Bấy giờ nhà vua dong túng dân nơi biên giới lấn cướp bờ cõi nhà Tống. Chuyển vận sứ Quảng Tây lộ là Trương Quan, và binh mã giám áp ở trấn Như Hồng là Vệ Chiêu Mỹ đem việc đó tâu về triều, vua Tống ý muốn vỗ về cho yên, nên cũng bỏ qua không hỏi đến. Trương Quan lại dâng thư nói rằng nhà vua bị họ Đinh xua đuổi, thu nhặt đám quân còn sót, ra ở nơi hải đảo, cướp bóc để độ thân, nay đã mất rồi. Vua Tống sai thái thường thừa là Trần Sĩ Long làm Thái phóng sứ, sang dò hư thực, mới biết những lời Trương Quan đều dối trá cả, bèn xuống chiếu nghị tội bọn Trương Quang. Lại bổ Trần Nghiêu Tẩu làm Quảng Tây Chuyển vận sứ, và sai Hải khang úy là Lý Kiến Trung đem chiếu thư sang ta.

Trước đây, bọn Văn Dũng, dân trấn Triều Dương, phạm tội , trốn sang trấn Như Tích thuộc Khâm Châu bên Tống, được trấn tướng nhà Tống là Hoàng Lệnh Đức chứa chấp. Nha vua sai trấn tướng ta ở Triều Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt không được. Đến đây, Nghiêu Tẩu (người Tống) đến trấn

Như Tích, hỏi biết rõ đầu đuôi về việc chứa giấu phạm nhân, mới đem giao trả ta tất cả trai, gái, già trẻ hơn trăm người mà trước đây Hoàng Lệnh Đức đã chứa chấp. Nhà vua lại bắt hai mươi bảy người Đãn không biết tiếng Trung Quốc đưa sang Quảng Tây giao cho Tống. Nhân tiện sai sứ sang tạ ơn Tống và nói đến việc đã bắt được giặc biển đưa sang rồi. Lại hứa hẹn sẽ răn cấm dân các miền khê động không được khuấy rối nữa.

Lời chua - Như Hồng và Như Tích: Sách Thanh Nhất thống chí chép: trấn Như Hồng và trấn Như Tích đều ở về phía tây Khâm Châu, thuộc phủ Liêm Châu, tỉnh Quảng Đông.

Triều Dương: Tên trấn. Xem Lý Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 14 (Chb. II, 23).

Người Đãn (Hồ di Đãn Man): Theo sách Lĩnh Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, người Đãn là giống người lấy thuyền làm nhà, coi ở nước như ở trên cạn, lênh đênh sống trên sông biển.

Sứ nhà Tống sang ban sắc mệnh.

Nhà Tống lại sai Lý Nhược Chuyết đem tờ chiếu và đai ngọc sang ban cho. Khi sứ thần đã đến nơi, nhà vua ra đón ở ngoài đô thành, có ý ngạo mạn coi thường, không thi lễ, bảo Nhược Chuyết rằng: "Trước đây xảy việc cướp trấn Như Hồng là do giặc ở ngoài biên giới, chẳng hay hoàng đế có biết cho không? Giả sử Giao Châu chúng tôi nổi lên chống lại, thì trước hết kéo sang Quảng Châu, rồi vào mọi quận ở Mân Châu, chứ có khi nào chỉ nhằm một trấn Như Hồng mà thôi?". Nhược Chuyết ung dung nói: "Túc hạ xuất thân từ một nha tướng, được hoàng đế trao cho tiết việt, hết lòng cung thuận, hợp với lễ nghĩa, tất không có ý gì khác. Các đại thần bên tôi đều cho rằng giặc biển khuấy rối, một mình Giao Châu không thể trị nổi, xin đem quân ra hội tiễu, để dứt hẳng mối lo về sau. Nhưng hoàng đế lại lo Giao Châu không biết rõ được ý chí triều đình, lỡ sinh ra sợ hãi chăng, cho nên không đem quân sang hội tiễu nữa". Nhà vua ngạc nhiên nói: "Giặc biển xâm phạm biên giới, đó là lỗi tại người bầy tôi có trách nhiệm giữ biên cương. Từ nay xin kính theo giáo hóa triều đình, quét sạch chướng khí ngoài biển" . Nói đoạn, cúi đầu tạ lỗi.

Lời chua - Giao Châu: Xem thuộc Đường, Cao tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb. IV, 18).

Quảng Châu: Xem Lương, năm Đại Đồng thứ 7 (Tb. IV, 2).

Mân Châu: Bây giờ thuộc Phúc Kiến thống bộ.

Đinh Dậu, năm thứ 4 (997). (Tống, năm Chí Đạo thứ 3).

Tháng 4, mùa hạ. Nhà Tống gia phong nhà vua tước Nam Bình vương.

Tống Chân tông lên ngôi, gia phong nhà vua tước Nam Bình vương. Trước đây, sứ Tống đến, thường nói về việc cống muối rồi dây dưa đến cả việc thuế khóa. Chân Tông nghe biết chuyện ấy, nên đến đây, chỉ sai viên quan ở biên cương triệu người sang để trao cho sắc chỉ, chứ không chuyên sai sứ thần mang sang như trước nữa.

Sai sứ sang nhà Tống.

Năm ấy (Đinh Dậu, 997), nước Chiêm Thành cướp nơi biên giới. Nhà vua đi đánh, quân Chiêm thua chạy, mới đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống, nhân tiện dâng biểu đại lược nói: "Giao Châu chúng tôi giáp giới với Chiêm Thành, trong một hai năm nay, Chiêm Thành thường khuấy rối miền lân cận, cướp nhà thuế hộ, xâm lấn lương dân; nước tôi thường phải dùng đến binh khí để ngăn cản chúng, nên mới đến nỗi trễ việc triều cống, thật là trái phép tắc của triều đình". Nhà Tống đáp lại một cách ưu hậu, ban cho đai ngọc, áo giáp và ngựa.

Tháng 7, mùa thu. Nhà vua đi đánh giặc ở Đỗ Động, bắt được đồ dđảng nó đem về.

Có thủy tai lớn.

Mậu Tuất, năm thứ 5 (998). (Tống, Chân Tông, năm Hàm Bình thứ 1).

Tháng 3, mùa xuân. Động đất.

Mồng 1, tháng 5, mùa hạ. Nhật thực. Suốt từ tháng này đến tháng 6, không mưa.

Mồng 1, tháng 10, mùa đông. Nhật thực.

Kỷ Hợi, năm thứ 6 (999). (Tống, năm Hàm Bình thứ 2).

Nhà vua thân đi đánh và dẹp yên được Hà Động.

Bốn mươi chín động vùng Hà Động đều dẹp yên cả. Từ đấy các châu, các động đâu đấy đều quy phục.

Lời chua - Hà Động: tức động Hà Man; bây giờ là đất huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.

Canh Tí, năm thứ 7 (1000). (Tống, năm Hàm Bình thứ 3).

Bọn Trịnh Hàng ở Phong Châu làm loạn. Nhà vua xuống chiếu sai đi đánh.

Bọn Trịnh Hàng làm loạn, nhà vua điều khiển quân sĩ đi đánh. Trịnh Hàng chạy sang núi Tản Viên.

Lời chua - Phong Châu: X. Hùng Vương (Tb. I, 1).

Tản Viên: Tên núi. Ở huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Hình thế núi cao vọi như cái tán, nên gọi là Tản Viên.

Sai tướng chia nhau đi tuần các nơi biên thùy.

Sai Từ Mục đi tuần cõi Hà Tây, Ngô Tử An đi tuần cõi phía bắc, để dò xét tình hình biên giới.

Tân Sửu, năm thứ 8 (1001). (Tống, năm Hàm Bình thứ 4). Vua nhà Đinh trước là Toàn mất ở Cử Long.

Nhà vua đi đánh Cử Long: Vệ vương Toàn theo đi. Bấy giờ quân giặc thấy nhà vua, chúng giương cung, chĩa tên, toan bắn, chiếc tên rơi xuống; chúng lại giương cung, dây cung đứt. Chúng sợ, rút lui. Nhà vua đi thuyền ven sông đuổi theo. Quân giặc ở hai bên bờ đánh khép lại. Quan quân bị hãm ở sông. Vệ vương Toàn trúng phải mũi tên bay, mất tại trận. Nhà vua kêu trời ba tiếng, rồi thân ra đốc chiến: quân giặc thua.

Lời phê - Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đã cướp lấy nước người ta, lại không khéo đối đãi chúa cũ, đẩy vào chỗ chết, thế nào mà Toàn chẳng đến tử vong? Còn việc cất tiếng kêu trời, gieo mình xuống đất, chỉ là một ngón giả trá. Thật khó che đậy được công luận nghìn thu. Lời chua - Cử Long: Tên dân tộc Mán. Nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là mán Cử Long, đến nhà Lý diệt được. Năm Thuận Thiên (1428-1433), nhà Lê đặt là huyện Lạc Thủy; năm Quang Thuận (1460-1469), đổi lại Cẩm Thủy. Bây giờ vẫn theo tên cũ, thuộc phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Nhâm Dần, năm thứ 9 (1002). (Tống, năm Hàm Bình thứ 5).

Tháng 3, mùa xuân. Đặt luật lệ pháp lệnh.

Lựa tuyển chư quân.

Lựa tuyển trong dân đinh lấy những người khỏe mạnh sung bổ vào các đội ngũ. Chia tướng hiệu làm hai ban. Chế mấy nghìn chiếc mũ đâu mâu, ban phát cho sáu quận.

Lời chua - Lộ, phủ, châu: Thay đổi và xếp đặt thế nào không rõ.

Quý Mão, năm thứ 10 (1003). (Tống, năm Hàm Bình thứ 6).

Nhà vua đi Hoan Châu, đào sông Đa Cái293 .

Bấy giờ đào sông Đa Cái, có kẻ ta oán nổi lên làm phản, nhà vua sai bắt chém đem rao đi khắp nơi để mọi người biết. Đầu mục dân thành Nhật Hiệu là bọn Hoàng Khánh Tập đem gia quyến của chúng hơn bốn trăm năm mươi người trốn sang Khâm Châu bên Tống. Người Tống yên ủi và bảo trở về. Bọn Khánh Tập sợ tội, không dám về, cứ trú ở nơi bờ biển.

Lời chua - Hoan Châu: Tức Nghệ An. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 21).

Đa Cái: Tên xã. Bây giờ là xã Hương Cái, huyện Hưng Nguyên. Theo sách Nghệ An chí, Hương Cái cảng ở phía tây nam huyện Hưng Nguyên.

Thành Nhật Hiệu: Sách An nam chí chép là trường Hiệu Thành. Nay không khảo được.

Khâm Châu: Bây giờ thuộc phủ Liêm Châu, tỉnh Quảng Đông nhà Thanh. Theo sách Giao Chỉ di biên , Hoàng Khánh Tập vào ở tại thôn Ô Thổ bên sông Dũng bộ thuộc địa phận Khâm Châu.

Giáp Thìn, năm thứ 11 (1004). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 1).

Tháng giêng, mùa xuân. Lập Nam Phong vương Long Việt làm Thái tử.

Trước đây, con trưởng là Kình Thiên đại vương Long Thâu mất, Ngân Tích, theo thứ tự, đáng được lập. Bấy giờ Long Đĩnh cầu xin làm Thái tử, ý nhà vua muốn cho; đình thần bàn rằng không lập con trưởng mà lập con thứ thì không hợp lễ; thành thử lại thôi. Đến đây, lập Long Việt làm Thái tử, gia phong Đông Thành vương Ngân Tích và Khai Minh vương Long Đĩnh làm đại vương.

Sai Hành quân vương Minh Đề sang bên Tống.

Nhà vua sai Minh Đề, lấy tư cách là quyền chức Thứ sử Hoan Châu đi thăm hỏi nhà Tống. Minh Đề đến Biện Kinh , khẩn cầu ban cho ân điển. Vua Tống y cho, vời vào tiện điện vỗ về hỏi han, ban thưởng rất hậu, và phong làm Kim tử vinh lộc đại phu Kiểm hiệu Thái úy Hoan Châu thứ sử.

Lời chua - Minh Đề: Tức là Long Đề, con thứ hai Lê Đại Hành.

Xem đánh cá ở sông Đại Hoàng.

Lời chua - Sông Đại Hoàng: Bây giờ là con sông xã Đại Hữu huyện Gia Viễn (Ninh Bình).

Ất Tị, năm thứ 12 (1005). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 2).

Tháng 3, mùa xuân. Nhà vua mất.

Nhà vua khi mới mất, gọi là Đại Hành hoàng đế, rồi cứ để làm miếu hiệu, không đổi lại; ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi.

Lời chua - Hán thư chép: Cao đế (nhà Hán) mới mất, triều thần gọi là Đại Hành hoàng đế. Tôn Dục nhà Nguỵ nói: "Phép đặt tên thuỵ, lúc sinh thời làm được sự nghiệp to tát hay là nhỏ mọn thì lúc mất tên thuỵ cũng theo như vậy. Khi tiên quân chưa có tên thuỵ, mà tự quân (vua nối ngôi) đã lên ngôi, kẻ thần hạ xưng hô nên có phân biệt; vì vậy gọi là Đại Hành". Hiệu gọi: "Đại Hành" có lẽ gốc từ đấy.

Táng ở Sơn Lăng Hoa Lư.

Tháng 10, mùa đông. Thái tử Long Việt lên ngôi.

Trước đó, Đông Thành vương Ngân Tích, Trung Quốc vương Long Kính và Khai Minh vương Long Đĩnh đều làm loạn; Thái tử không lên ngôi được, cầm cự nhau đến 8 tháng, trong nước không ai làm chủ. Đến đây, Long Việt mới lên ngôi; Ngân Tích phải chạy, bị người châu Thạch Hà giết chết.

Lời chua - Thạch Hà: Tên Châu. Nhà Đinh, nhà Lê gọi là châu Thạch Hà; nhà Lý đổi làm huyện Thạch Hà; nhà Trần đổi gọi châu Nhật Nam; hồi thuộc Minh gọi là châu Nam Tỉnh. Về sau, Lê lại gọi là huyện Thạch Hà. Bây giờ là huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Khai Minh vương Long Đĩnh giết vua Long Việt mà tự lập.

Vua Long Việt lên ngôi được 3 ngày; Long Đĩnh sai kẻ trộm trèo tường vào trong cung, giết chết, rồi cướp ngôi, tự lập làm vua; truy đặt tên thuỵ vua Long Việt là Trung Tông hoàng đế.

Dùng Lý Công Uẩn làm Tứ Sương quân phó chỉ huy sứ.

Khi vua Long Việt bị giết, bầy tôi đều chạy trốn cả, chỉ có điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm thây nhà vua mà khóc. Long Đĩnh cho là trung nghĩa, cất lên làm chức này.

Truy tôn mẹ làm Hưng Quốc quảng thánh Hoàng thái hậu.

Nhà vua đã cướp được ngôi, xưng tôn hiệu là Khai Thiên ứng vận thánh văn thần vũ tắc thiên sùng đạo đại thắng minh quang hiếu hoàng đế: truy tôn mẹ làm Hoàng thái hậu.

Lời chua - Thái Hậu: Con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì.

Lập bốn Hoàng hậu.

Nhà vua tự cầm quân đi đánh Ngự bắc vương Long Ngận và Trung Quốc vương Long Kính, dẹp yên được cả.

Bấy giờ nhà vua đã lên ngôi, Long Ngận và Long Kính giữ xã Phù Lan để chống lại. Nhà vua thân đi đánh: hai vương ấy đóng chặt thành cố thủ. Vây đến vài tháng, trong thành cạn lương; Long Ngận bắt Long Kính đem dâng nộp. Nhà vua sai chém Long Kính và tha tội cho Long Ngận. Nhân tiện, đem quân đi đánh Ngự Man vương Long Đinh ở Phong Châu; Long Đinh phải đầu hàng. Từ đó các vương đều chịu phục cả.
Lời chua - Phù Lan: Xem năm Hưng thống thứ 4 (Chb. I, 27).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét