Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu. P07

Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu
Quyển thứ V
Dực Anh Tôn Hoàng Đế
Niên hiệu Tự Đức
Tên húy Ngài viết bằng chữ Hán: Bên tả chữ
Bên hữu chữ.
Trên chữ Ngài viết bằng chữ Hán. Bên tả chữ
Bên hữu chữ mà trên có chữ Hường làm chữ lót.
Ngài là con thứ 2 đức Hiến Tổ Hoàng Đế; đức Từ Dũ Hoàng thái hậu họ Phạm Đăng sanh Ngài trong năm Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mạng thứ 10 (1829). Đến năm Thiệu Trị


thứ 3 (1843), Ngài được phong tước Phước Tuy Công. Khi ấy An Phong Công là Hường Bảo tuổi tuy lớn, nhưng về con giòng thứ, lại ít học ham chơi; còn Ngài thời tánh nhơn hiếu thông mẫn lại ham học; đức Hiến Tổ thương lắm, thường đòi vào chầu, dạy Ngài những đạo học Đế, Vương, đời trước, cho đến việc dân gian cày cấy khó nhọc, lại cho một bộ sách "Thánh chế chỉ thiên đàn thi văn hội tập", và dụ rằng: "bộ sách ấy là ý chỉ của đức Hoàng Tổ ta để lại, phép trị thiên hạ đều ở đó". Đức Hiến Tổ khi ấy đã có ý lập Ngài rồi.
Tháng 9, năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), đức Hiến Tổ se, di chiếu lập Ngài nối ngôi. Ngài ở ngôi được 36 năm, thọ 55 tuổi. Lăng Ngài là lăng Khiêm Lăng.
Tháng 10, ngày Kỷ Sửu, Ngài lên ngôi tại điện Thái Hòa; đặt niên hiệu là Tự Đức, kể từ sang năm là năm Mậu Thân làm đầu, ban ân chiếu khắp trong ngoài.

Cho Cố mạng lương thần phụ trách chánh đại thần Trương Đăng Quế thăng Cần chánh điện đại học sĩ, tấn phong Tuy thạnh quận công; Phụ chánh đại thần Võ Văn Giải tấn phong An Viễn Hầu; Nguyễn Tri Phương phong Tráng Liệt Bá; Lâm Duy Thiếp thăng Hiệp tá đại học sĩ.

Truyền các quan địa phương tâu rõ tình trạng khốn khổ ngoài dân gian.
Tháng 12, thự Tả tham tri bộ Công là Trương Quốc Dung dâng sớ tâu 5 điều: 1. Bớt việc chi tiêu, 2. Cẩn việc hình ngục, 3. Chỉnh đốn quan lại, 4. Giảm bớt văn án, 5. Sửa sang phép học. Trong sớ ấy lại nói: "tài lực trong dân, so với năm trước mười phần kém đến năm sáu, mà các quan địa phương thường hay trau giồi tiếng tốt: hỏi số dân thời tâu rằng tăng, hỏi mùa màng thời tâu rằng được, chỉ muốn cho mình được tiếng khen, mà lòng thiệt vì nước vì dân thời ít. Mới rồi đây, mống trên trời thường hiện ra, e khí âm dương hoặc có chưa hòa; vậy xin Hoàng thượng sắc cho các quan, bớt phiền văn, bỏ thói đối mà chăm điều thiện, cho đến việc công dịch, việc thâu thuế, đều nên khoan giảm cho binh dân ít tốn của nhọc công, để cố kết lòng người thời khí hòa ứng mà tai dị khỏi được". Ngài dụ đình thần xét lời sớ ấy phúc tấu thi hành.
Mới lập nhà thờ Hiền Lương để thờ các hiền thần giúp trị, và nhà thờ Trung Nghĩa để thờ các trung thần. Hai nhà thờ ấy lập tại bên tả chùa Thiên Mụ.

Năm Mậu Thân hiệu Tự Đức thứ 1 (1848), tháng giêng, quan Nội các là bọn Nguyễn Bá Nghi thấy khi ấy các quan tâu việc thường dâng mật sớ, bèn tâu rằng: "các quan tâu việc, nếu không phải việc binh nhung, việc đại chánh trong nước và các việc không nên tiết lậu, thời xin không được dâng mật sớ, để cho khỏi tệ lén cáo giác nhau". Ngài chuẩn cho biên để làm lệ thường.

Cấp cho thuyền buôn nước Tàu bị gió xiêu, mỗi người một phương gạo. Ngài truyền chỉ từ nay về sau có thuyền bị tai nạn, đều chiếu lệ ấy chẩn cấp.
Vua Cao Man là Sá Ong Run sai sứ đệ đồ phẩm nghi làm lễ dâng hương, lễ khánh hạ và lễ tuế cống.
Ban sắc thơ, hàng lụa cho nước Thủy xá và Hỏa Xá. Hai nước ấy đều xin sai sứ đến làm lê dâng hương và lễ khánh hạ. Ngài cho.
Tháng 2, Tuần phủ Ninh Bình là Ngô Kim Liên dâng sách Đại học diễn nghĩa bổ.
Quan tỉnh Bình Thuận dâng tập sổ "khẩn ruộng đất hoang". Ngài truyền dụ quan tỉnh phải gia tâm chuyên đốc khẩn trị, làm cho đất không bỏ hoang, dân được giàu có.

Tháng 3, tỉnh Hà Tĩnh gạo mắt lắm, Ngài truyền phát lúa gạo kho, giảm giá bán cho dân; lại truyền dụ khiến nghiêm trấp người giữ kho không được kiếm điều lôi thôi, tổng lý hương hào không được mão lãnh bao lợi, để cho dân nghèo được nhờ ơn.

Đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin ban ơn cho con cháu ông Anh Duệ thái tử (ông là con đức Thừa Thiên cao hoàng hậu, khi ông mới 4 tuổi, vâng mạng quan Tây, đến 6 năm mới về, đức Cao hoàng phong ông làm Nguyên soái và lập làm Đông Cung. Oâng có công giữ thành Gia Định, trấn thành Diên Khánh, lấy tỉnh Bình Thuận, thâu phục Phú Yên, công nghiệp rực rỡ, chẳng may mất sớm; con là Mỹ Đàng đã bị tội, Mỹ Thùy lại bị bệnh mất, chỉ còn một mình Lệ Chung là con Mỹ Đàng được phong Cảm Hóa Hầu để làm thừa tự. Xuân Cẩn thấy vậy nên mới tâu xin). Ngài chuẩn cho bộ Lễ phải ghi tên Lệ Chung, rồi sẽ nghĩ. Xuân Cẩn lại xin lục dụng những con cháu Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Trong lời sớ đại lược rằng: "bọn Văn Thành đều là gặp hội gió mây, xông trường tên đạn, mình làm đại tướng, tước đến quận công; trong năm Gia Long, Văn Thành vì cớ chẳng hay cấm ước người con, tức giận tự tử, sau con cháu lại mắc án làm giặc, đều bị giết cả; còn Văn Duyệt, Lê Chất đều chết rồi mới phát ra án nặng, truy cách chức quan, từ đó về sau chưa đặng nhờ ơn nghĩa tới. v.v". Ngài thấy tâu vậy, cũng cảm động lắm, khiến hỏi con cháu bọn Văn Thành còn ai thời phải tâu lên. Được ít lâu Lệ Chung tấn phong quận công; con cháu bọn Văn Thành cũng đều bổ chánh đội. Đó là theo lời Võ Xuân Cẩn tâu xin.

Hiệp tá đại học sĩ Lê Đăng Dinh mất; truy tặng Thiếu sư Văn minh đại diện đại học sĩ. Đăng Dinh là cử nhân tỉnh Quảng Trị, trải thờ 4 triều, tuổi cao đức dày, từng giúp Ngài học nhiều điều bổ ích, vậy nên Ngài lễ trọng hơn.

Tháng 4, Thị lang, sung Nội các Nguyễn Văn Trường dâng sớ tâu 3 việc: 1. Xin chuẩn tiền công phí cho lính; 2. Xin tha việc hòa mãi cho dân; 3. Xin tăng giá thuê cho các thuyền chở, tờ sớ ấy thi hành cũng nhiều.
Tháng 5, Thự hiệp tá Nguyễn Đăng Giai (con quan Hiệp tá Nguyễn Đăng Tuân) điều trần 10 khoản về việc hình án: 1. Tội làm giặc; 2. Tội ăn cướp; 3. Tội đánh chết người; 4. Nghiêm sức các sở tra án; 5. Lệ tra xét án kiện; 6. Phép đoán định tội danh; 7. Nghiêm nghĩ tội các quan viên; 8. Các án ban ra xét; 9. Quan viên bị kiện; 10. Quan viên can nghĩ. Ngài đều y cả.

Tháng 6, lập lại trường thi Thanh Hóa (năm Minh Mạng, tỉnh Thanh Hóa đặt riêng một trường thi chung với tỉnh Nghệ; đến đây quan tỉnh xin thi riêng, nên cho lập trường lại).

Ngài truyền dụ các quan rằng: "quan vui thời dân khổ, trên ích thời dưới tổn, chẳng qua vì quan lại võ văn lộng pháp, tạ sự hại dân; hoặc nhơn đoán ngục xét hình dụng tâm làm nặng nhẹ, mà sách người lấy của; hoặc nhơn bắt lính đòi thuế, giả đốc sức để kiếm miếng chia nhau; hoặc đem đồ thỉnh thác quan trên, để nhờ nâng đỡ; hoặc sanh việc góp lướm người dưới, để lấy tiền riêng; tình tệ còn nhiều, ta thiệt lấy làm buồn lắm ! Người xưa có nói: "bày một điều lợi không bằng trừ một điều hại, sanh ra một việc không bằng giảm đi một việc". Bây giờ việc nên làm trước chi hơn hình thời khoan, chánh thời giảm, quan thời thanh, lại thời liêm. Các ngươi phải nghĩ thế nào cho quan lớn giữ phép, quan nhỏ thanh liêm, đều bỏ hết thói tệ; thức khuya dậy sớm, lòng lo cẩn thận siêng năng; trên giúp ta những điều nghĩ chưa tới, dưới khiến cho trăm họ đều được yên vui; ấy là ta trông lắm mà thiên hạ càng may lắm !!!".
Cho thêm ngạch cử nhơn các trường thi.
Bọn Nguyễn Đăng Giai tâu 13 việc, như là định lệ duyệt tuyển dân đinh, báo khẩn ruộng đất hoang, vỗ yên dân điêu háo, bắt điền lính thiếu ngạch, v.vẦ Ngài đều theo cả.

Tháng 7, Tri huyện Duy Xuyên là Hà Học Hải (cử nhân Hà Tĩnh) được thăng Trước tác sung Biên tu Sử quán. Dân huyện ấy đến kinh kêu xin lưu lại; Ngài liền đòi Học Hải vào chầu, ban hỏi phép "trị dân". Học Hải tâu lên, Ngài bằng lòng lắm, khen là hết lòn làm việc quan, có chánh trị hay, nên dân tín ái; liền cho thăng Thừa chỉ, nhưng lãnh huyện Duy Xuyên. Sau Học Hải mấy tại lỵ, dân huyện ấy lập nhà thờ; ít lâu lại cho truy thọ Thị độc.

Tháng 9, lập lại trường Đốc học tỉnh Phú Yên. (Tỉnh ấy trước đặt Đốc học, sau đổi đặt Giáo thọ; năm ấy quan tỉnh xin đặt Đốc học và làm nhà trường lại).
Tháng 10, khiến các quan tỉnh trong kinh và ngoài các tỉnh, mỗi ông đều phải cử tri một người. Mới lập viện Tập Hiền (vì năm sau sẽ mở Kinh Diên, nên lập viện ấy, chức hàm mấy ông quan Khởi cư chú phải để ba chữ "Tập Hiền Viện" lên trên).
Tháng 11, định chương trình dạy lính Tuyển phong (trước dạy phép bắn súng trường thương và điểu thương, sau dạy phép tàu bắn súng).

Năm ấy đến kỳ thu thẩm1 Ngài dạy rằng: "ta mới nối ngôi, ban ơn khắp cả thiên hạ, mà đến việc hình, lại thương xót hơn". Ngài cho khoan giảm và hoãn tội phần nhiều.

Năm Kỷ Dậu thứ II (1849), tháng giêng, giảm thuế vàng mỏ Tịnh Đà tỉnh Cao Bằng.
Mới định lệ "Aám thọ con các quan Tôn Thất" (phàm Tôn Thất người nào có công lao, đã được phong tước, thời con cháu cho tập phong; còn văn tứ phẩm, võ tam phẩm trở lên, đều chiếu hàm cho một người con ấm thọ: chánh nhứt con được ấm thọ chánh ngũ; tùng nhứt con ấm thọ tùng ngũ; nhị, tam, tứ phẩm cứ thứ giảm lần).

Tháng 2, mới mở sở Kinh Diên. Mỗi ngày giảng sách, Ngài cùng các quan bàn sách nghĩa, Ngài đều cắt nghĩa rõ ràng; nhơn bàn chánh sự thi chương, thiệt là thạnh điển xưa nay chưa có.
Tháng 6, dựng bia "An Tây võ công". (Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Hoàng, Tôn Thất NGhị, cả thảy 6 người đều có công đánh giặc tại thành Trấn Tây; nên Ngài cho khắc bia ghi công.

Tháng 7, Sứ Tàu là Lao Sùng Quang đến Kinh làm lễ Tuyên phong. Lễ ấy giao tiếp rất thành, thể thống ra tôn, lâu nay chưa từng có. (Từ Thiệu Trị về trước, đều là lễ Tuyên phong tại thành Hà Nội; đến đây xin mời Sứ tới Kinh, vua Tàu nghe theo, tháng ấy Sứ bộ qua tới).
Tháng 8, Tham tri bộ Binh là Hoàng Tế Mỹ (hoàng giáp Hà Nội) mất. Tế Mỹ là văn thần chầu sở Kinh Diên, một lòng siêng năng cẩn thận. Ngài tiếc lắm, tặng hàm Thượng thơ.

Tháng 10, Tổng đốc An Hà là Doãn Uẩn (cử nhơn Nam Định) mất. Ngài nghĩ Doãn Uẩn vì nước chịu khó nhọc, có tiếng liêm năng, cho tặng hàm Hiệp tá, cấp tuất và tứ tế rất hậu lại cho tiền gạo về đưa đám và nuôi vợ con, để khuyến kẻ thanh liêm, tỏ người tài giỏi.
1 Thu thẩm nghĩa là mùa thu khí trời nghiêm thẩm, nên vua theo lệnh trời đến mùa ấy thời xét việc hình.

Tháng 12, định lệ "quan viên cách trừ", (người nào khoa mục, ấm sanh xuất thân, nhơn việc công bị cách chức quan nhưng đều cho đứng vào hạng khoa mục, ấm sanh, khỏi phải chịu thuế).

Năm Canh Tuất thứ III (1850), tháng giêng, Ngài chăm việc chánh trị; cách một ngày lại ngự triều bàn việc chánh thi hành. Aáy là muốn cho trên dưới tình thông mà không việc gì cản trở.
Nước Ma-li-căn (Amétique) sai Ba-ly-rì chạy tàu đến cửa Đà Nẵng, (thuộc tỉnh Quảng Nam) nói rằng đệ tờ quốc thơ tạ lỗi (vì năm trước lỗi phép giết người) và xin thông thương. Quan Hậu quân lãnh Tổng đốc là Tôn Thất Bật xin quyền nhận tờ thơ, tùy cơ bẻ bác, Ngài không cho Ba-ly-rì xin lên chơi núi Ngũ Hành, rồi chạy tàu đi.

Tả Hữu trực kỳ và Nam Kỳ lục tỉnh lâu nay dân nhiễm bệnh dịch hơi nặng; (bộ Hộ thông tính cả Nam, Bắc các hạng bị bệnh hơn 589.460 người), lại bị mất mùa, Ngài thương lắm.

Cho Thượng thơ bộ Công là Nguyễn Tri Phương sung Kinh lược đại sứ Nam Kỳ, lãnh Tổng đốc Định - Biên, kiêm Tổng đốc Long - An; cho Thượng thơ bộ Hình là Nguyễn Đăng Giai sung kinh lược đại sứ Hữu Kỳ, lãnh Tổng đốc An - Tịnh, kiêm Thanh Hóa; cho Thượng thơ bộ Lại là Phan Thanh Giản sung kinh lược đại sứ Tả Kỳ, lãnh Tổng đốc Bình - Phú, kiêm Thuận - Khánh; đều lãnh cờ tiết mao tới lỵ, cốt để bày điều lợi, trừ điều tệ, cấm trấp quan lại, chiêu yên nhơn dân. Ngài lại khiến quan Phủ doãn và quan tỉnh Nam, Nghĩa phải xét trong dân đều chi lợi hại, quan lại người nào hay dở, tâu lên.

Tháng 2, lại mở mỏ vàng Gia Hưng. (Thuộc Hưng Hóa).

Tháng 3, Thự Tri phủ Tuy Biên (thuộc An Giang) là Võ Văn Hiệu (Tấn sĩ), Tri huyện An Xuyên là Nguyễn Duy Quang (Cử nhơn) đều hết lòng về việc trị dân. Người nào bệnh cho thuốc, người nào chết lo chôn, đứng bảo lãnh mượn của nhà giàu giúp cho nhà nghèo, thám bắt trộm cướp cho yên dân, dân đều tin và thương; Tổng đốc là Cao Hữu Bằng đem sự trạng tâu lên. Ngài ban khen, cho Văn Hiệu thiệt thọ tri phủ; Duy Quang gia hàm Tri phủ, đều thưởng bạc và lụa khác nhau; Ngài khen Hữu Bằng có lòng tiến cử người giỏi, thưởng cho 3 cây sa.

Định lệ "quan lại về đinh gian". (Văn võ quan viên, gặp tang cha mẹ, người nào chức trách long trọng và đương sai phái đánh giặc, nên đoạt tình1 đòi ra làm việc quan, thời phải có lời đặc chỉ2; còn từ Cửu phẩm trở lên và Hậu bổ, Cử Nhơn, Aám sanh, Giám sanh, đều cấp hạn 12 tháng về nhà chịu tang).

Tháng 5, ngài mới ngự cày ruộng Tịch Điền.
Tháng 6, dồn bớt các phủ, huyện, châu ở tỉnh Nghệ, Thanh và Quảng Yên. (Thuộc tỉnh Nghệ An: đem huyện Yên Thành giao về phủ Diễn Châu kiêm lý; huyện Nghĩa Đàn, Quế Phong, Túy Vân đều giao về phủ Quỳ Châu kiêm lý; 4 huyện Tương Dương, Kỳ Sơn, Hội Nguyên, Vĩnh Hòa đều giao về phủ Tương Dương kiêm lý. Thuộc tỉnh Thanh Hóa; đem huyện Hậu Lộc giao về phủ Hà Trung kiêm lý; hai huyện Quảng Tế, Thạch Thành giao về phủ Quảng Hóa kiêm lý; hai châu Lương Chánh, Thường Xuân giao về phủ Thọ Xuân kiêm lý; hai huyện Hoằng Hóa, Mỹ Hóa hiệp làm huyện Hoằng Hóa, nhưng thuộc phủ Hà Trung huyện Cẩm Thủy và châu Quan Hóa hiệp làm huyện Cẩm Thủy, nhưng thuộc về phủ Quảng Hóa. Thuộc tỉnh Quảng Yên: đem châu Vạn Ninh đặt làm phủ Hải Ninh, nhưng trích châu Tiên An, nguyên thuộc phủ Sơn Định, bây giờ đổi thuộc phủ Hải Ninh; còn huyện Nghiêu Phong, An Hưng và Hoành Bồ, nguyên thuộc phủ Hải Ninh, bây giờ đổi thuộc phủ Sơn Định, nhưng cho quan huyện Hoành Bồ kiêm lý cả ba huyện).
Tháng 7, định lệ: các địa phương phàm bắt linh, phải nghiêm hạn cho sở tại dải đến, không được sai lính về các làng.

Tháng 12, giảm viên dịch các Bộ, nha ở Kinh và ở các phủ Hoàng thân.
Năm Tân Hợi thứ IV (1851), giáng giêng, mới định lệ "mỗi năm đến tháng 2, quan trên xét cử người thuộc viên". (Mỗi năn đến tháng 2, văn võ các quan trên đều phải xét ty thuộc, văn từ tứ phẩm
1 Đoạt tình là đương ở chịu tang mà đòi ra làm việc quan.

2 Đặc chỉ là vua phán ra một cách riêng.

đến lục phẩm, người nào có học hành, làm việc thanh liêm siêng giỏi; võ từ Quản vệ đến Suất đội, người nào võ nghệ am luyện, sai phái được việc, mà đều tại chức lâu năm, không tội lỗi gì, quan trên xét thiệt, làm tập tấu bảo cử).

Ngài ngự sông Lợi Nông xem ruộng lúa.

Tháng 2, đổi Phan Thanh Giản làm Kinh lược phó sứ Nam Kỳ, nhưng lãnh Tổng đốc Gia Định, kiêm Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên.

Định lệ "thuế các cửa ải, bến tàu ở các tỉnh Bắc Kỳ".

Tháng 4, lập nhà Tôn học (sau nhơn học trò nhác học, triệt đi; đến năm thứ 19 lập lại).
Định lệ "Tôn sanh, Ấm sanh khiêu bổ". (6 năm hạch khiêu một lần).
Định lệ thuấ ruộng công phủ Thừa Thiên, trong 10 phần tha 3 phần, kể từ năm nay làm đầu. (Là theo quan phủ Thừa Thiên Võ Trọng Bình xin).

Tháng 5, mới mở thi Chế khoa, (trường nhứt: 9 đề kinh nghĩa; trường nhì: 1 đề phú, 1 đề thi ngũ ngôn và 1 đề thi thất ngôn; trường ba: chiếu, biểu, luận, mỗi món 1 đề; trường tư: 1 đề văn sách; 4 trường đều ngự đề), Lấy đậu 7 người cho vào Đình, Ngài ngự ra đề văn đình. Đến khi ngự duyệt xong rồi, sắc cho Võ Duy Thanh Bác học hoành tài, cát sĩ cập đệ1 nhị danh, Võ Huy Dực đệ tam danh2; còn mấy người kia, Ngài đều cho Xuất thân3 và Đồng xuất thân4 có thứ tự.

Tháng 6, định lệ "Quan viên phụ": văn lục phẩm, võ ngũ phẩm trở lên, cha được Quan viên phụ, tha khỏi đi lính, làm xâu và nạp thuế thân cước mể các hạng; văn thất phẩm, võ lục phẩm, cha cũng được Quan viên phụ, nhưng chỉ tha khỏi đi lính và làm xâu, còn các hạng thuế cũng nạp như dân tráng.

Tháng 7, đổi tên núi Tá Ly làm núi Tá Linh, đem vào lệ quốc tế (núi ấy thuộc huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị, cao lắm, mạch núi nguồn sông trong hạt đều từ núi ấy mà ra).

Truyền quan bộ Hộ xét rõ sổ chi tiêu tấn lãm. Ngài bảo rằng: "tiền của là cội gốc trong thiên hạ, dân nhờ đó mà sống, nước nhờ đó mà đủ dùng, rất làhệ trọng, những người coi việc ấy, phải nghĩ cho xa, tính cho kỹ, nếu làm thinh không biết lo liệu, thời phụ chức trách nhiều lắm".

Năm ấy chuẩn cho phủ Thừa Thiên cùng các tỉnh những ruộng đất hoặc bị lở, hoặc bị bỏ rậm, hoặc bị nước mặn hoặc đất sỏi, hoặc cát bồi bỏ hoang mà còn biên trong sổ thuế, tổng cộng là 104.016 mẫu, đều cho xóa sổ mà đem vào hạng khỏi thuế.

Truyền dụ thưởng Nguyễn Đăng Giai đồng quân công gia một cấp và ngọc đeo, tiền vàng, đoạn, sa, dâm, quế các hạng. Vì Đăng Giai từ khi lãnh cờ tiết mao tới lỵ sở, xét hỏi tình dân, sửa sang việc châu quận, cử người liên giỏi, truất người tham nhũng, tha thuế thiếu, vỗ yên chỗ điêu háo; bây giờ dân được đủ ăn, khỏi bị trộm cướp. Ngài cho là không kém với bực Tuần lương5 đời xưa, nên ban lời dụ khen tốt lắm.

Ngài nghĩ sứ Hữu Kỳ dân đã bớt khổ, đổi Nguyễn Đăng Giai lãnh Tổng đốc Hà Ninh, nhưng sung Kinh lược các tỉnh Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng. Ngài truyền dụ phải chăm việc điều tể binh dân và sửa trị bờ cõi.

Đổi phép thi Hương, thi Hội. (Thi Hương đậu 3 trường là Tú tài, 4 trường là Cử nhơn, thi Hội 4 trường đều đậu mà thông kể được được 8 phân trở lên là trúng cách, hoặc 3 trường kể được 9 phân trở lên, mới cho vào thi Đình).

1 Cập đệ nhị danh là Bảng nhãn.


2 Đệ tam danh là Thám hoa.

3 Xuất thân là Hoàng giáp.
4 Đồng xuất thân là Tấn sĩ.

5 Tuần lương là ông quan địa phương giỏi.

Dân tỉnh Hà Tĩnh là Hoàng Kim Thanh (người huyện Nghi xuân) ra sức cày ruộng, ham làm điều phải, như là khẩn ruộng hoang để phân cấp người trong làng, xuất của tư cấp cho dân nạp thuế, cho mượn không lấy lời, đắp đập giúp việc làm ruộng. Quan Tuần phủ đem việc tâu lên, Ngài khen, ban thưởng.

Tháng 11, có một chiếc tàu Đại Pháp tự phía đông chạy đến cửa Phước Thắng tỉnh Biên Hòa, thả neo đậu lại; người dưới tàu hoặc khi lên bờ mua đồ ăn, hoặc khi dạo bắn chim các làng gần biển, rồi liền xuống tàu.
Tháng 12, dồn các phủ, huyện, châu thuộc tỉnh Vĩnh Long, Lạng Sơn, Hưng Yên, Hưng Hóa. (Thuộc tỉnh Vĩnh Long: đem huyện Duy Minh nhập về huyện Tân Minh; huyện Bảo An nhập vào huyện Bảo Hựu, quan phủ Hoằng Trị cứ kiêm lý huyện Bảo Hựu như cũ và nhiếp huyện Bảo An, lại thống hạt hai huyện Tân Minh và Duy Minh. Thuộc tỉnh Lạng Sơn: đem huyện An Bác giao về phủ Trường Khánh; châu Thoát Lãng giao về phủ Trường Định kiêm nhiếp. Thuộc tỉnh Hưng Yên: đem huyện Thiên Thi giao về huyện Phù Cừ, huyện Hưng Nhơn giao về giao về huyện Diên Hà kiêm lý; còn nguyên Khoái Châu phân phủ thời bớt đi. Thuộc tỉnh Hưng Hóa: đem châu Đà Bắc hiệp về châu Mai, châu Yên hiệp về châu Mộc, Quỳnh Nhai hiệp về châu Lai; huyện Thanh Thủy nhập vào huyện Thanh Sơn; còn 3 làng Cao Phong, Thạch An, Quỳnh Lâm, nguyên thuộc về huyện Thanh Thủy, nhưng xét địa phận gần huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, cho nhập vào huyện Bất Bạt).

Năm Nhâm Tý thứ V (1852) tháng giêng, tướng giặc Tàu hiệu Quảng Nghĩa Đàng là Lý Đại Xương, hiệu Lục Thắng Đàng là Hoàng Thị Văn, hiệu Đức Thắng Đàng là Lưu Sĩ Anh đều tới hàng.
Lập phường1 để thờ người xử sĩ Gia Định là Võ Trường Toản. Trường Toản đương hồi loạn Tây Sơn, ở ẩn dạy học, học trò thành lập đông. (Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Phạm Đăng Hưng đều học trò cả). Trong năm Gia Long, đức Thế Tổ cho hiệu "Sùng Đức tiên sanh". Bây giờ Nguyễn Tri Phương lại xin sanh biểu. (Hiệu Sùng Đức sau đổi làm Tố Đức).
Khi trước sai Hiệp tá lãnh Hình bộ là Đặng Văn Thiêm vào tỉnh Bình Định tra việc quan tỉnh gây lộn nhau và xét hỏi lợi hại trong dân gian tùy việc sửa sang. Đến đây về phục mạng, Ngài hỏi: "ruộng công ruộng tư tỉnh Bình Định sự thể thế nào?"- Văn Thiêm tâu: lối trước chia ruộng, trong 10 mẫu lấy 5 mẫu làm ruộng công, 5 mẫu làm ruộng tư; nhưng lâu nay ruộng công chỗ nào tốt thời hào cường chiếm lấy, hoặc có lẽ loi đám nào, lại bị Hương, Lý bao choán, còn dân thời chỉ được ruộng xấu mà thôi, nên tôi khiến sửa lại bờ bạn phân minh, để làm cho dân được lợi".
Kinh lược là Nguyễn Đăng Giai tâu xin phái trọng thần đặng giúp việc ngoài biên. Ngài liền cho Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên là Ngụy Khắc Tuần sung Kinh lược phó sứ, kiêm lãnh Tổng đốc Ninh - Thái - Lạng - Bình. (Rồi Khắc Tuần liền thôi chức ấy, chỉ coi việc Sơn, Hưng, Tuyên; sau lại đổi làm Thượng thơ bộ Hộ).

Tháng 2, Đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn về hưu, (tuổi 80) được gia hàm Thái bảo, cấp cho bán bổng, ngài ban cho bài thơ, (bài thơ ấy chép trong Thánh chế thi sơ tập) có câu rằng: "thiên hạ trung dung2 suy Bá Thỷ3 thế gian đức vọng trọng Văn Công4; nghĩa là: thiên hạ trung dung tày Bá Thỷ, thế gian đức vọng sánh Văn Công. Tháng 4 năm ấy Xuân Cẩn mất. Ngài khiến dựng nhà bia ở cửa làng, chạm 4 chữ "Tứ triều nguyên lão", lại điếu bài thơ nữa.

Ngài dạy quan bộ Hộ là Hà Duy Phiên rằng: "ruộng công và ruộng tư các tỉnh sự thể thế nào?- Duy Phiên tâu: Thừa Thiên, Quảng Trị, ruộng công nhiều hơn ruộng tư; Quảng Bình ruộng công ruộng tư ngang nhau; còn các tỉnh khác ruộng tư nhiều ruộng công ít; Bình Định ruộng công càng ít hơn; nên chi năm trước Võ Xuân Cẩn xin chia hai ruộng tư, 10 phần lấy 5 phần làm ruộng công, quân cấp binh dân, để cho có chỗ ăn nhờ. - Ngài lại hỏi: lệ nạp thuế thế nào? - Tâu rằng: Hà Tĩnh trở ra Bắc, thuế ruộng

1 Phường là xóm. Đời xưa các người có danh tiếng, đến khi mất rồi, Triều đình cho lập nhà thờ tại chỗ ở cũ, để tỏ người giỏi.

2 Trung nghĩa là chánh giữa, không lệch phía nào; dung là đạo thường không khi nào đổi.

3 Hồ Quảng tên chữ là Bá Thỷ người nhà Hán.
4 Văn Công là thầy Tiên nho Châu Hy nhà Tống. công nặng hơn ruộng tư; Quảng Bình trở vào Nam, công và tư thuế bằng nhau. - Ngài dạy rằng: lợi cho Nhà nước không mấy, vả lại chia ruộng tư sung làm ruộng công, chỉ làm một tỉnh Bình Định, còn các tỉnh thời không, e chưa được công bằng; ta muốn trả lại hết số ruộng tư cho dân Bình Định, nên chăng? - Tâu rằng: ruộng công đã cấp cho binh dân rồi, nếu lấy lại gấp, e chúng nó mất sanh lý. - Ngài lại hỏi: như lấy 6 phần làm ruộng tư để 4 phần làm ruộng công, được không? - Tâu rằng: thêm bớt không bao nhiêu, sợ làm thêm rối". Nhưng Ngài còn muốn bộ Hộ, bộ Binh hội nghị thế nào cho binh dân đều lợi. Duy Phiên cùng Đăng Giai cố xin như cựu, Ngài cho.

Tháng 3, Ngài nghĩ việc chánh cốt tại nước giàu dân mạnh, mà nay tiền thời ít, lính thời thiếu, truyền Đình thần nghĩ thế nào để cứu tệ ấy. Đình thần nghĩ rằng: "tiền đồng kh6ong tiêu thời mòn, tiền kẽm đúc thời ít không đủ; bây giờ xin tiền đồng và tiền kẽm đều cho tiêu cả, mà đúc cho nhiều, để cho tiền đủ dùng. Còn như việc quân chánh, đặt lệ nhiều mà không kiểm hết, thời lính thường khuyết ngạch; số dân điêu mà không xét rõ, thời lấy ai mà điền lính. Xin phân biệt làng nào trù mật thời tăng ngạch lính, làng nào điêu háo thời giảm; xét trong thể lệ, mà sức thị rõ ràng, thời tệ lính thiếu có thể khỏi được". Ngài theo lời xin.

Tháng 5, trong Kinh kỳ hạn lâu, Ngài lập đàn cầu mưa, đình việc công tác, ban ân dụ 10 khoản; lại khiến các quan tâu những việc lầm lỗi. Sáng ngày trời mưa.

Tháng 6, định giới hạn tỉnh Tuyên Quang. (Làng Bình Di tỉnh Tuyên Quang giáp giới với làng Đông Anh nước Tàu, lấy núi Đại Lãnh Can Làm giới hạn).
Tháng 8, định lại lệ "An tứ thọ quan, thọ dân" (tùy hạng ban cho hoặc lụa hoặc vải).

Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản dân sớ tâu 8 việc: 1. Xin Thánh thể nên thận trọng; 2. Bãi hát xướng; 3. Xin ức chế kẻ hầu cận; 4. Xin chuộng điều tiết kiệm; 5. Xin giảm bớt cận thần; 6. Xin chăm việc tuyển cử; 7. Xin khoan việc làm xâu cho dân; 8. Xin thêm bổng hướng các quan. "Ngài dạy rằng: các ngươi đã tỏ lòng trung ái, sẵn có mưu kế gì hay, nên thường thường vào tâu. Tri Phương và Thanh Giản nhơn xin nạp cờ tiết mao từ chức kinh lược. Ngài dụ rằng: các ngươi phải gắng ở đó, nghĩ việc sắp đặt về sau, khi nào thành hiệu, ta sẽ đòi về cũng không muộn chi".

Tháng 11, Ngài hỏi việc các cửa ải bến tàu trong nước. - bộ Hộ tâu: "nguyên trước 60 sở, gần đây giảm bớt, chỉ để 21 sở, hiệp cọng số bạc thuế hơn 455 lượng, số tiền thuế hơn 384.969 quan".

Truyền dụ quan phủ Thừa Thiên, chẩn tuất dân cùng và nã bắt trộm cướp. Lời dụ rằng: "Sách Châu Quan nói việc cấm kẻ dữ, trước trọng chốn Bang Kỳ; phép nhà Hán chăm việc trị người gian, đầu nghiêm chỗ Kinh triệu; truyền phủ thần phải xét người nào cùng khổ, tâu xin chẩn cấp; còn đứa nào chơi bời, nhác nhớn, thời bắt mà trừng trị".

Tháng 12, ban thưởng bạc và lụa cho quan viên thọ phụ là Trương Quốc Hiền (thân phụ ông Trương Quốc Dụng, đã 80 tuổi). Nhơn truyền chỉ từ nay quan tứ phẩm trở lên, ai còn cha được 80 tuổi, phải tâu Ngài biết.
Hiệp tá lãnh Thượng thơ bộ Hộ là Hà Duy Phiên mất. Ngài nghĩ Duy Phiên là đại thần kỳ cựu, bèn tặng hàm Thiếu bảo, Văn minh điện đại học sĩ, ban tiền tuất, cho tế rất hậu.

Năm Quý Sửu thứ VI (1853), tháng giêng, định lệ "khiếu bổ Anh danh và Giáo dưỡng". (3 năm khiêu bổ 1 thứ).
Chuẩn cho xứ Nam Kỳ làm phép đồn điền lập ấp. Đình thần tâu: "xin cho xứ Nam Kỳ cùng các tỉnh từ Bình Thuận trở ra Bắc, thông sức người bổn hạt, cho tình nguyên ứng mộ; mộ được bao nhiêu, giao cho 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên; còn dư cho qua Vĩnh Tế, Ba Xuyên, Tĩnh Biên, chỗ nào đất hoang thời cứ ở mà cày. Như mộ người đồn điền, thời thúc lính đồn điền, chia 50 người Hán dân làm 1 đội, cho bổ Suất đội, được 1 cơ cho bổ Chánh đội thí sai phó quản cơ; Ngày sau thành căn cước, 1 đội làm ấp, 1 cơ làm tổng, còn Quản cơ, Suất đội đều lãnh chức Tổng trưởng, Aáp trưởng. Người nào mộ dân lập ấp, được 30 người thời tha xâu thuế trọn đời, được 50 người thời thưởng chánh cửu phẩm, được 100 người thời thưởng chánh bát phẩm, nhưng lãnh chức Tổng lý. Còn thuế ruộng đất hiện khẩn và thuế đinh, đều cho khoán hạn để khuyến khích cho người ứng mộ". Nguyễn Tri Phương lại tâu: "phủ Ba Xuyên và phủ Tĩnh Biên, dân Thổ mới theo về, nay chẳng cho hết lục tỉnh làm, mà chỉ cho 2 phủ, e hoặc sanh sự chăng? Xin thông sức lục tỉnih, bao nhiêu người ứng mộ, ai muốn qua Tĩnh Biên, Ba Xuyên, ai muốn tìm đất không khoáng trong bổn hạt, khai khẩn lập ấp, đều cho tình nguyện, nhưng phải thuộc vào các tổng đã lập thành rồi. Lại xin cho tù phạm ở lục tỉnh, như có đứa nào xin mộ lập 1 đội, hoặc 1 thôn, đều được 50 người, thời cho làng họ chúng nó đứng bảo kết, sẽ tha tội, giao cho tỉnh An Giang phân tháp về chỗ Vĩnh Tế, hoặc giao Hà Tiên phân tháp về chỗ Giang Thành, ở đó cày ruộng, sau xét quá được thành hiệu sẽ nghĩ". Ngài đều cho thi hành cả.

Tháng 2, mở mỏ vàng Thượng Ân tỉnh Thái Nguyên.

Định lại lệ "hạch thuộc viên văn võ". (Lệ cũ: võ ban tạm phẩm trở xuống mà tại chức 3 năm, đều phải xét hạch ghi vào sách. Nay nghị lại 3 năm, đều phải xét hạch ghi vào sách. Nay nghị lại 3 năm một lần cống, văn cũng như võ).

Ban 2 bài thơ ngự chế cho các quan ở Kinh và ở ngoài các tỉnh. Trước khi ấy, ít mưa, Ngài lo lắm, làm bài thơ "vọng võ thuật hoài", đến khi tế Nam Giao rồi, Ngài ngự về, được trận mưa to luôn mấy ngày, lúa ruộng đều sanh sắc. Ngài mừng lắm; làm bài thơ "đắc vũ", để ghi nhớ ơn Trời. Trong hai bài thơ ấy là tỏ lòng kính sợ, và có ý vua tôi nên tu đức. Ngài tự viết giao ra khắc bản in, in ban khắp trong ngoài, văn từ Tứ phẩm ấn quan trở lên, võ từ Đốc phủ trở lên, ban mỗi người 1 tờ, để xem cho biết xét mình sợ trời.

Mở các mỏ kẽm ở tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Lạng Sơn, để đúc tiền cho nhiều.

Mới định ngạch học sanh từ Quảng Bình trở vào Nam. (Tú tài, học trò, người nào tư chất tốt và ham học, hạch đậu bổ vào học sanh cho ăn lương học tập).

Đổi 3 tỉnh Quảng Trị, Phú Yên, Hà Tĩnh làm 3 đạo (vì nhiều người nói 3 tỉnh ấy nhỏ, việc ít, nên đổi làm đạo, để giảm bớt quan lại).

Tháng 3, khiến Nguyễn Tri Phường chuyên làm Kinh lược đại sứ trong Nam Kỳ, Tham tri Phạm Thế Hiển làm Tuần phủ Gia Định Tham tá kinh lược sự vụ. (Rồi sau Thế Hiển được thăng thọ Tổng đốc Định - An). Ngài đem 5 việc quan yếu xứ Nam Kỳ hỏi Thế Hiển: 1. Chiêu dụ lưu dân; 2. Luyện tập quân lính; 3. Bày mưu kế hay để giữ chốn biên cảnh; 4. Cấm hút nha phiến; 5. Trừ nhũng tệ các quan lại. Thế Hiển kê khoản tâu lên, đại lược rằng: "lập ấp khẩn ruộng để dụ lưu dân về; cấm sách nhiễu; chăm luyện tập để đổi lần thói lính nhác; tính việc biên phòng, chi bằng mộ dân quan chốn biên c3nh, đóng đồn tập võ nghệ; muốn cấm nha phiến thời trước phải cấm quan lại hút; muốn trừ lại tệ thời trươc nên bớt việc". Ngài dạy rằng: "người tâu vậy đã nhằm cội gốc đó, nhưng biết vậy mà nói không khó gì, chỉ có làm được như vậy là khó mà thôi".

Định lệ "cày mướn ruộng". (Phàm nhà giàu cho người ta cày mướn ruộng, gặp năm mất mùa, Triều đình giảm thuế, thời người cày mướn cũng được chiếu theo đó mà giảm số lúa nạp cho nhà giàu).
Chuẩn cho các Địa phương có làng nào xin trích ruộng công hoặc ruộng tư đặt làm ruộng hương học để nuôi thầy dạy con em trong làng, thời đều cho dân tuỳ tiện.
Tháng 11, An viễn hầu Võ Văn Giải mất, được tặng hàm Thiếu bảo.

Tháng 12, giảm 10 việc phí tổn công nhu. (Bãi thưởng sa khi Ngài cày ruộng Tịch điền, ban yến khi thi Hội, Hậu bổ ngoại ngạch và đúc bạc thức mới cả thảy 4 điều: giảm mỗi năm tiền dầu, sáp, thuốc bắc, cấp cho các sở cả thảy 5 điều; còn 1 điều là áo cứ 6 năm cấp 1 lần).

Năm Giáp Dần thứ VII (1854), tháng giêng, đào ruộng sông Nguyện Đức (thuộc Bắc Ninh) để trổ bớt nước sông Nhị Hà.

Hường Bảo mưu nghịch, tự tử. (Vì không được lập cho nên mưu ngịch. Khi có tội, Triều đình đổi ra họ Đinh). Con trai, con gái Hường Bảo và người dự mưu là Tôn Thất Bật đều bị xóa tên trong sổ Tôn Thất.
Ngài ngự nhà Văn Miếu làm lễ xuân tế; rồi ngự qua Quốc Tử Giám, lên nhà Di Luân giảng học, xem lễ, ban yến cho Học thần và Sanh viên. Khi về, Ngài ngự chế 14 bài "Nhã thi" và bài tự (chép ở trong Thi văn sơ tập), truyền đem tuyên đọc tại trường Giám, cho tỏ ý răn dạy; rồi truyên in ban từ Học thần, nho thần đến sanh viên mỗi người 1 bổn. Lại chuẩn cho các quan mỗi người làm bài thơ hoặc bài tụng dâng lên, Ngài sẽ lựa bài nào hay hơn cho in tiếp theo các bài Ngự chế, đặt tên là "Bích ung canh tập"; rồi khắc vào bia dựng ở trường Quốc Tử Giám.
Giảm Viên dịch ở ti Phiên, ti Niết, và các phủ, huyện xứ Nam Kỳ lục tỉnh cả thảy 168 người. Tháng 4, Ngài truyền dụ răn dạy quan lại từ Quảng Nam trở vào, phải do việc nước trị dân.

Tháng 5, Bắc Ninh, Sơn Tây bị hoàng trùng làm hại. Ngài dạy tra phép bắt sâu đời xưa, lục ra các tỉnh ấy tuân hành.
Ban thưởng làng An Nghiệp và làng Mậu Tài thuộc tỉnh Phú Yên, mỗi làng 1 bức biển khắc 4 chữ "Thiện tục khả phong", thưởng Hương trưởng Nguyễn Văn Sĩ và Lê Văn Quang hàm Tùng cửu phẩm bá hộ. Vì dân 2 làng ấy, góp lúa mua ruộng, lập kho, nhường nhịn nhau, không tranh kiện, phong tục thuần lắm; là nhờ Văn Sĩ và Văn Quang xướng suất cho nên được vậy.

Tháng 7, Nghệ An tra đệ 1 án về việc mạo nhận dân phiêu lưu. Thượng thơ bộ Hộ Ngụy Khắc Tuần nhơn xin phép cả các tỉnh, hễ làng nào dân phiêu lưu từ triều Gia Long về sau, thời phải để ruộng đất ở đó, chờ lưu dân trở về; còn làng nào phiêu lưu từ lúc Tây Sơn về trước, thời cho dân ở hạt đó lập bộ khẩn ruộng nạp thuế, để cho dân cùng có chỗ làm ăn, mà ruộng hoang ngày càng thêm khẩn trị. Ngài theo.
Khi trước xứ Nam Kỳ lục tỉnh làm việc đồn điền, nhiều người nói bất tiện, Ngài có truyền dụ quan kinh lược Nguyễn Tri Phương xét kỹ thế nào tâu lên. Đến đây Nguyễn Tri Phương tâu: "đất Nam Kỳ liền với giặc mọi, dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về, đốc việc khai khẩn để nuôi dân ăn, thiệ là một cách quan yếu giữ giặc và yên dân đó. Hiện bây giờ dân mới hồi phục đã thúc thành cơ, đội, được 21 cơ, lập thành làng xóm phỏng chừng 100 làng, chia ra đồn khẩn, thể đã nghiêm, hình đã vững, không đến nỗi ly tán; nhưng tôi xét việc đồn điền, vẫn lợi nước lợi dân, mà không lợi cho Tổng, Lý, vậy nên Tổng, Lý đặt điều để phỉnh dân, những người nói bất tiện đó, chẳng qua bị chúng phỉnh mà thôi". Ngài khen lời nói khẩn thiết, nghe theo; còn chương trình xét công thưởng phạt, chuẩn cho Tri Phương kê khoản tâu lên. Tri Phương tâu: "Chương trình mộ khẩn, xin chờ sắp đặt xong sẽ nghĩ, chỉ cần về tuần phủ, huyện khuyên đốc, hoặc siêng hoặc nhác phải nên xét, đáng thưởng đáng phạt phải nên định". Tri Phương nhơn dân chương trình xét công phủ, huyện, Ngài cho thi hành. (Các phủ, huyện đều chiếu hiện số mộ đinh khẩn điền nhiều ít, chia làm 4 hạng, mỗi hạng chia làm 10 thành, hạng trong 3 năm, lập cho thành căn cước).
Tháng 7 nhuận, quan tỉnh Định - An tâu: "Phủ huyện khuyên dạy dân trong hạt dự trữ lúa được 48.000 phương, chờ khi phát mãi, lại sức dân trồng khoai lang, bắp, nưa, so với năm trước hơn xấp ba xấp bốn". Ngài ban thưởng quan tỉnh và quan phủ, huyện kỷ lục hoặc gia cấp.
Giảm Viên dịch ở ty Phiên, ty Niết và các phủ huyện từ Bình Thuận trở ra Bắc, cả thảy 679 người. Kinh lược Bắc Kỳ Nguyễn Đăng Giai mất, (cử nhơn Quảng Bình) được tặng hàm Thái bảo.

Tháng 10, Thượng thơ bộ Hộ Ngụy Khắc Tuần mất, (Tấn sĩ Hà Tĩnh) được tặng hàm Hiệp tá.

Tháng 12, Phó lãnh binh Sơn Tây Lê Thuận phá hết đảng giặc ở núi An Sơn; Cao Bá Quát thua rồi chết, quân Triều bắt sống được tướng giặc và đảng giặc đem về. (trước khi ấy, Bá Quát làm giáo thọ phủ Quốc Oai, ỷ mình có tài làm quan nhỏ, bèn mưu nghịch, cùng người trong đảng tôn Lê Duy Cự làm minh chúa, mà mình làm quốc sư, rủ nhau làm giặc ở miền Hà Nội, Sơn Tây, được vài năm, đảng ấy dần dần bị bắt giết hết).
Năm Ất Mão thứ VIII (1855), tháng 3, lại cho mở mỏ kẽm ở tỉnh Thái Nguyên và mỏ than ở tỉnh Hải Dương để đánh thuế.

Tháng 4, định lại lệ "bổ" quan các Tấn sĩ, Phó bảng, Tôn, Giám, Aám sanh". Phàm đậu Tấn sĩ, Phó bảng, sơ thọ Viện hàm một năm, Tôn, Giám, Ấm sanh, tọa Giám đậu Khiêu sơ thọ Viện hàm ba bốn năm, rồi bộ Lại chiếu theo số phủ, huyện, châu, trong các tỉnh lượng chỗ phân phái làm Hậu bổ, gặp việc sai phái, hoặc phái quyền nhiếp phủ, huyện, để học tập việc quan, rồi Tấn sĩ, phó bảng trong một năm, Tôn, Giám, Aám sanh trong 2 năm, gặp có chỗ khuyết, nên thăng, chiếu lệ xét bổ chỗ khác, cho khỏi  yêm trệ. Lại xét lệ cũ: Phó bảng lệ thự Đồng tri phủ, hoặc bổ Tri huyện, có hơi khác nhau; nay đều cho bổ Đồng tri phủ, hoặc bổ Tri huyện, có hơi khác nhau; nay đều cho bổ Đồng tri phủ, hoặc hàm Đồng tri phủ nhưng lãnh phủ huyện, hoặc quyền nhiếp để cho nhứt định).

Ngài bảo quan Nội các rằng: lúa là cây quý trong nước, dân nhờ đó mà sống. Bởi vậy đời xưa trọng việc nông. Nay nên thống dụ các địa phương, hết lòng khuyên dạy, làng nào dân xiêu tán, ruộng bỏ hoang, thời mộ dân cày làm, hoặc ruộng đất nào cày được mà còn bỏ hoang, thời sức người khẩn trị, mỗi đến cuối năm, làm sổ tư về bộ Hộ, chia hạng tâu lên, sẽ định thưởng phạt, để khuyên người siêng mà răn kẻ nhác".

Ngài nghe trong dân tục đua nhau ăn mặc xa xỉ, lễ hôn giá cũng chưa được đúng, truyền bộ Lễ xét khi trước định lễ hôn giá và cách ăn mặc thế nào, sau nghị định đổi lại thế nào, tâu lên. Bộ Lễ lấy luật lệ và nghị định trong năm Minh Mạng thứ 8 và thứ 19 tâu lên. Ngài dạy rằng: "lệ ấy chưa được đủ, phải nghị lại". Bây giờ mới chuẩn định lại cách thức quan dân ăn mặc khác nhau và lễ tang, tế, hôn thú, cùng các điều cấm quan hệ về việc phong tục, rõ và kỹ lắm.
Tháng 7, tàu Anh Cát Lợi tới đậu vũng Sơn Chà, người trong tàu lên coi núi Ngũ Hành.
Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ lâu ngày, thường lấy điều nhớ cung khuyết tâu xin về Triều. Ngài muốn khiến tại chức cho lâu, để trông thành hiệu, mới ban lời dụ và bài thơ khuyên gắng ở lại.

Định lệ "tuyển cử Học thần". (Người nào khoa mục xuất thân, làm mực thước cho học trò được, mới đặng lựa bổ).
Ban cấp bài "Ngự chế quan châm", bài "Khuyết liêm châm" và sắc dụ cho phủ Thừa Thiên cùng các tỉnh, đạo, phủ, huyện, châu (mấy bài ấy đã chép trong Ngự chế văn tập).

Mới định lệ "thưởng phạt về sự chiêu dụ lưu dân". (Trong 10 thành mà thiếu đến 6 thành, thời quan địa phương bị phạt; trong 10 thành mà chiêu dụ được 6,7 thành trở lên, thời quan địa phương được thưởng).

Sách "Đại Nam hội điển" làm rồi.
Thêm ân bổng cho quan ở Kinh, cấp tiền dưỡng liêm1 cho các quan tỉnh và cho thâu tiên tụng lệ. (Kiện lớn 6 quan tiền, kiện nhỏ 4 quan).

Tháng 10, ban 2 bức Biển ngạch thưởng phong tục làng Liêm Công tỉnh Bình Thuận, và làng Diên An tỉnh Hưng Yên; (bức biển khắc 4 chữ "Thiện tục khả phong" lại thưởng người xướng suất cho trong làng làm điều phải. (Người làng Liêm Công là Nguyễn Văn Thơ trọng điều phải, hay châu cấp người cùng, lại đem lễ nghĩa dạy người làng, nên tục làng tốt lắm, được thưởng hàm Chánh cửu phâm bá hộ. Người làng Diên An là Trần Tú Dĩnh cấp ruộng và lập kho cho làng, lại dạy kẻ con em, giúp người nghèo cực, trong làng nhờ được thạnh vượng, Triều đình cho khai phục Cử nhơn).

Mới đặt ngạch Học sanh ngoài biên tỉnh. (Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Quảng Yên, mỗi tỉnh 3, 4 tên hoặc 5,6 tên).

Mọi Đá Vách ở tỉnh Quảng Nghĩa xin hàng. (Buổi ấy giặc mọi làm loạn, quan quân đánh đã lâu, đến đây mới hàng).

Năm Bính Thìn thứ IX (1856), tháng 2, đến kỳ 3 năm xét công các quan. Bộ Lại làm sổ xét quan văn thời chỉ kẻ người tại chức mãn 3 năm, chớ không nệ trong 3 năm ấy hoán bổ những chức gì; còn bộ Binh làm sổ xét quan võ thời cũng kể người tại chức mãn 3 năm, nhưng trong 3 năm ấy phải thủy chung một chức mới được. Quan Nội các thấy hai bộ làm khác nhau, xin y theo lệ bộ Binh. Ngài nghe theo.
Truyền các quan coi làm bộ sách Việt sử.

1 Dưỡng liêm là tăng bổng cho quan, để quan khỏi lấy của dân.

Định lệ "Lang trung, Viên ngoại được tùy ban tâu việc". (Người nào do khoa mục hoặc Tôn, Aám, Giám sanh, Tú tài xuất thân, đều được tùy ban tâu việc; còn Lại điển xuất thân thời chỉ cho chiếu ban vào trực mà thôi).
Truyền chỉ đổi Điện thí gọi là Phúc thí (chuẩn cho các Cống sĩ ngồi làm bài tại tả hữu trường lang, trước đền Khâm Văn. Lại định lệ: ai thi Hội 4 trường được 10 phân trở lên, thời được dự hạng trúng cách; 4 trường được 8,9 phân cùng 3 trường được 12 phân trở lên, đều phải trích ra, để hầu chỉ Ngài định).
Tháng 4, định lại chương trình xét công các quan. (Người nào hiền năng mẫn cán, hoặc ốm yếu, lâm thời sẽ xét nghĩ lại; lại lấy việc trị lại dân, việc binh, lương, hình, thông kể làm 4 điều, khấu tính thưởng phạt).
Định niên hạn cho các quan thự hàm được thiệt thọ, nhưng chia làm 2 hạng: 1 hạng ở phiên nha, 1 hạng ở giản nha1; và định niên hạn các quan mắc tội công phải đình thăng. (Văn tứ phẩm, võ tam phẩm ấn quan trở lên, không kể chỗ phiên chỗ giản, thư hàm được 2 năm mà không mắc xử phân khoản chi nặng, đều cho thiết thọ; văn tứ phẩm, võ tam phẩm thuộc viên trở xuống, ở phiên nha 2 năm, ở giản nha 3 năm, không có xử phân khoản chi nặng, đều cho thiệt thọ. Còn trong số các quan nhơn mắc tội công mà phải đình thăng, người khoa mục hoặc võ cử xuất thân, và có công đánh giặc, thời mãn 2 hạng cũng cho thiệt thọ, còn ngoài ra thời mãn 3 hạn mới cho).
Ban lời chiếu khiến quan địa phương phải chiếu dụ dân và khuyên dạy làm ruộng (vì các tỉnh số đinh thiếu, ruộng bỏ hoang).
Lãnh Thượng thơ bộ Hộ Đặng Văn Thiêm mất. Ngài cho thiệt thọ Văn minh điện đại học sĩ, tặng hàm Thiếu bảo.
Tháng 7, xứ Bắc Kỳ mưa lụt lớn, các tỉnh báo tai. (Bao nhiêu đàng đê bị phá lở nhiều, làng xóm đều nước ngập cả). Ngài thương xót lắm, truyền quan chẩn cấp.

Tháng 8, tàu Đại Pháp sanh sự tại vũng Sơn Chà, thuộc cửa Hàn tỉnh Quảng Nam. Khi ấy có một chiếc tàu chạy đến xưng rằng: "đệ tờ Quốc thơ, xin qua buôn bán mà thôi". Rồi lại đến cửa Thuận phủ Thừa Thiên đưa một tập giấy rồi chạy đi. Ngày bữa sau, tàu ấy trở lại cửa Hàn, nói rằng: "đưa thơ xong rồi, chạy tới đây chờ quan chánh, phó sứ đến thương thuyết; nếu không chịu hòa thời trở về rủ nước Xích Mao qua, chắc sanh việc không tốt". Việc ấy tâu lên, Ngài giao quan bộ Binh nghị, lại truyền tỉnh ấy phái binh tuần phòng. Liền thấy tỉnh ấy dâng sớ tâu: "tàu Đại Pháp đã bắn phá các đài bảo ở vũng Sơn Chà rồi". Ngài dụ quan bộ Binh rằng: "cửa Hàn có việc, ta đã chuẩn cho quan tỉnh Quảng Nam đòi nhóm biền binh, tùy cơ chống cự; chỉ có ải Hải Vân là nơi thông với cửa Hàn, phải sai lính qua đó cho mau mà canh giữ.

Sai Hường lô tự khanh Nguyễn Duy hiệp với quan Hữu dực Đào Trí trù nghĩ việc ngăn giữ ngoài biển.

Hôm trước chiếc tàu Đại Pháp đưa thơ tại cửa Thuận An, Ngài đã chuẩn trả thơ lại, tỏ ý không

chịu nhận lời, rồi tàu Pháp lại tư giấy cho quan giữ cửa Hàn, xin đệ tờ thơ giao hảo thông thương: bây giờ lại có một chiếc tàu 3 cột buồm tiếp tới, cùng chiếc tàu trước hạ neo đậu một nơi. Ngài chuẩn phải thêm lính tuyển phong hiệp đồng toán quân trước, đóng giữ cho tráng thanh thế. Được vài ngày, chiếc tàu máy ra cửa chạy qua phía đông.

Bốn mỏ vàng xứ La Sơn, Phước Vượng, Na Ba, Đồng Bộc thuộc tỉnh Lạng Sơn, vàng lại sanh vượng như cũ. Ngài chuẩn cho mở mỏ trưng thuế.

Tháng 10, định lại kệ "con các quan Văn, võ được khai ấm thọ". (Văn, Võ về người Tôn Thất, từ tứ phẩm trở lên, cùng quan Văn bách tánh từ tùng tam phẩm trở lên và quan Võ lục đẳng, thất đẳng, các công thần phong tước Nam, đều cho chiếu lệ khai người ấm thọ).
1 Phiên nha là chỗ công việc nhiều; giản nha là chỗ công việc ít.
Tháng 11, quan Trấn dương đại thần1 tâu: "2 chiếc tàu tây tới khi trươc đó, một chiếc thời đậu giữa vũng, 1 chiếc thời lui tới không thường; chúng tôi đã sai người tới hỏi, thời họ thường kiếm điều nói rằng: "tới hỏi thăm quan Chánh, Phó sứ". Ngài khiến phải phòng bị cho nghiêm (2 chiếc tàu ấy là chiếc tàu 3 cột buồm và 1 chiếc tàu máy).

Kinh lược Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển tâu: "trong các cửa biển ở Nam Kỳ lục tỉnh, như cửa Cần Giờ, tỉnh Gia Định, đã sâu lại rộng, tàu lớn đi được, chỗ ấy quan yếu lắm; còn thứ nữa thời cửa Nhỏ tỉnh Định Tường. Vậy chúng tôi xin lựa chỗ hẹp dưới đồn Tam Kỳ (bờ bên tả thuộc làng Lương Thiện tỉnh Biên Hòa, bờ bên hữu thuộc làng Bình Khánh tỉnh Gia Định) lập 2 đồn ở phía tả và phía hữu để nương đỡ nhau; còn cửa Nhỏ tỉnh Định Tường, thời xin cho quan Tổng đốc Long - Tường tới khám chỗ nào nên lập đồn bảo thêm, tâu lên sẽ xét". Ngài nghe theo.

Tháng 12, Ngự sử Đặng Toán đem tình thế các đàng sông xứ Bắc Kỳ ngăn lấp tâu lên, xin truyền chỉ khởi đào cho thông đàng nước chảy. Ngài dụ rằng: "các tỉnh Bắc Kỳ thường bị nước sông làm hại, lòng ta thương dân, chưa khi nào nằm yên, muốn tìm cách sửa trị, cốt tại đào thông dòng dưới. Nay Toán xin vét cửa biển và cấm ngăn đắp đàng nước, nói cũng có lý; vậy phải lục cho các tỉnh có sông, phàm chỗ nào có thể dẫn nươc sông ra biển, đều phải vét đào cả".

Năm Định Tỵ thứ X (1857), tháng giêng, bọn Đào Trí tâu: "tàu Đại Pháp đến, xin ta phái quan giao hội hòa hảo, mà quan tàu tự xưng là quan nhứt phẩm mình hội nghị. Vậy xin lựa phái quan Đại thần tới hội". Ngài dạy rằng: "lời đó câu nệ quá chừng; truyền bộ phải lập tức cho Đào Trí hết lòng lo liệu làm sao cho nhằm sự cơ, mới xứng lòng ta ủy dùng, phải mượn người nhác làm gì nữa".

Quan phủ Thừa Thiên tâu xin đắp 2 bờ lũy vòng câu ở cửa Thuận An, bên bãi cát, phía nam và phía bắc để giúp việc phòng giữ. Ngài nghe theo.
Hai chiếc tàu đậu tại cửa Hàn khi trươc, đến nay ra cửa chạy đi. Bọn Đào Trí tâu: "xin chia phái biền binh để lại cho đủ số phòng giữ, còn bao nhiêu đều triệt về cho nghĩ". Ngài cho; chỉ để 2 ban lính Long Võ và Hùng Nhuệ ở lại phòng bị.

Ngài nghĩ cửa Hàn là chỗ cửa biển hệ trọng, bây giờ tàu Pháp tuy chạy đi rồi, mà những việc làm cho vững về sau, phải nên tính trước. Bèn khiến bọn Đào Trí hội với quan tỉnh kê khoản tâu lên, hậu chỉ thi hành. Bọn Đào Trí đem các sự nghi dâng sớ tâu: (1. Đặt đồn Trấn Dương ở chóp núi, để 20 khẩu sung đại bác; 2. Xin từ thành An Hải đến núi Sơn Chà, từ thành Điện Hải đến cửa Thanh Khê đều đắp lũy cát, trồng gai gốc ngăn giữ; 3. Xin triệt bãi đồn nhứt đồn nhì). Ngài truyền về Kinh ứng hậu.

Trung quân đô thống chưởng phủ sự, Võ lao Hầu Tạ Quang Cự (người phủ Thừa Thiên) xin về hưu. (Tuổi 86, được ăn nửa bổng). Ngài dụ rằng: "làm tôi thờ vua, phải cử người giỏi, ngươi ở Triều đã lâu, xét người đã nhiều, Thống quản có tên nào xuất sắc, cho cử lên". Quan Cự cử 4 người là Đoàn Thọ, Đào Trí, Nguyễn Sơn, Hoàng Ngọc Chung. Ngài lại ngự chế bài thơ ban cho.

Tháng 4, truyền dụ răn dạy các quan trong ngoài, phàm việc gì chớ nên dối trá.

Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương vào chầu, Ngài hỏi hết tình trạng đồn điền. Lại hỏi: "tuổi khanh đã cao, được khoẻ mạnh không? - Tâu rằng: "tôi nay 58 tuổi, sức trong mình hơi yếu". Ngài ban cho 1 tráp áo mặc mát. Tri Phương lại đem các điều trù nghĩ bổ cứu về việc đồn điền, kê khoản tâu lên. Ngài dạy rằng: "Thôi ! Cũng y cho ngươi, để cầu cho nên việc".

Sai quan bộ Hộ Tôn Thất Cáp vào cửa Hàn, khám xét trù nghĩ các công việc. Khi trở về, Cáp tâu: "cửa ấy thiệt là chỗ hệ trọng, mấy khi đặt thêm các đồn nhứt, nhị, tam, tứ, xin nên để nguyên như cũ". Cáp lại tâu: "phía bắc thành Điện Hải, ngoài lũy cát, cát biển bồi ngầm dưới mặt nước, gần đến giữa vũng, xin đắp thêm một pháo đài tại chỗ ấy, để khi bắn dùng cho thong thả, mà pháo đài liên tiếp với Điện Hải thành, khi có việc cũng dể giúp nhau". Ngài giao bộ nghị, Bộ xin theo cả, chỉ có khoản xin đặt pháo đài, thời công trình nặng nề quá, vả lại chỗ ấy cát mới bồi, làm gấp chưa tiện, xin chờ ít lâu sẽ làm. Ngài cho phải.

1 Trấn dương nghĩa là trấn giữ ngoài biên.

Ngài nghĩ Hà Nội, Bắc Ninh thường năm bị đê vỡ, đã biết trời có khi lụt lội, nhưng vì người chưa hết sức dự phòng, mới dụ khiến Đình thần rằng: "trù nghĩ thế nào, cho nướcsông khỏi hại dân ở đặng yên, chút thư lòng ta lo việc phía Bắc Kỳ. Ta cũng cho Nguyễn Tri Phương được hội nghị, để cho nhiều người nhóm trí khôn với nhau, thời lo việc mới được chín chắn". Đình thần tâu: "bây giờ cứu nước lụt, nếu không đắp đê, thời cũng không có chước gì; xin đặt riêng nha Đề chánh, để chuyên trách cho nên việc". Bọn Phạm Chi Hương lại biệt nghị rằng: "phép trị hà trổ nước với đắp đê, hai cách đều nên làm cả; vả lại, 2 con sông Thiên Đức và Hàm Long, từ phía bắc chảy đến, chừng hia ba ngày mới tới biển, trong đàng sông cũng có chỗ cạn hẹp ngăn lấp, nay nhơn đàng cũ xoi thông ra, đễ cho tiêu bớt nước sông Nhị Hà, còn bao nhiêu chảy xuống biển, thời thế nước đi tiện lắm". Ngài dạy rằng: "việc trị hà khó lựa người lắm, phải cần người siêng giỏi quen việc, mới xứng chức ấy. Lại như lời Phạm Chi Hương xin đó, sự thể nên làm vậy. Chờ lựa được người, sẽ giao xét nghĩ". Khi ấy các quan cử Hộ đốc Ninh, Thái là Võ Trọng Bình, Aùn sát Hà Nội là Nguyễn Văn Vĩ, Ngài cho Trọng Bình lấy hàm Tuần phủ quản lý Đề chánh tham tá. Lại truyền dụ rằng: "các ngươi phải hết lòng sắp đặt, cho được thành hiệu, thời công các ngươi đời đời hãy còn, chẳng những là được hậu thế thưởng mà thôi".

Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Tôn Thất Cáp tâu công việc Nam Kỳ rằng: "các hạt Nam Kỳ, mấy năm trước nhờ ơn Triều đình điều tể, đã hơi sanh sắc, chỉ có một hai khoản nên tuỳ thời sửa sang". Nhơn lệ xin 4 việc: 1. Số thuyền tàu công trong Nam Kỳ, xin chiếu theo ngạch lính hiện tại để đủ dùng; 2. Xin đào rộng đàng sông ở 2 huyện Long Xuyên và Kiên Giang để cho thêm hiểm trở; 3. Tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, Định Tường gạo nhiều, mà các tỉnh Nam Trực, Tả Kỳ kho tàng chứa gạo ít lắm, xin thuê thuyền buôn vận chở gạo Nam Kỳ ra, trữ cho đủ dùng; 4. Bình Thuận, Khánh Hòa, dân ở bìa núi, thường bị hổ hoạn khổ lắm, xin làm nhiều cách cứu giúp, cho dân khỏi cực. Còn như khoản giao hảo nước Xiêm, (quan Tuần phủ Nguyễn Tường Vĩnh xin giao hảo với Xiêm) thời xét ý Xiêm vẫn muốn giảng hoà, nhưng chưa có mối manh rõ ràng, xin chờ xét kỹ sẽ tâu). Ngài đều theo cả.

Tháng 7, định lại lệ "quan lại bị cách lưu1 cho khai phục2" (trừ khi gặp Khánh tiết cho khai phục ngoại, còn thời chờ đủ 3 năm kê tâu lên, hậu chỉ).

Hai chiếc tàu máy Đại Pháp từ phía nam đế, ghé hòn La Dự tỉnh Quảng Bình, rồi trở ra cửa Ba Lạt tỉnh Nam Định đậu vài ngày chạy đi.

Tháng 8, gặp lễ Vạn thọ, nhưng khi ấy xứ Bắc Kỳ bị lụt bão, Ngài truyền giảm yến hạ, hát múa. Khi trước Tri huyện Kỳ Anh (thuộc Hà Tĩnh) Nguyễn Mẫn được phép vào chầu, có điều dâng
rằng: "trong hạt nguyên có 1 con sông nhỏ, từ làng Hữu Lễ liên tiếp các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc, rồi chảy xuống biển, xin đào cho sâu, cho tiện việc nông thương". Tháng trước quan khoa đạo Nguyễn Đức Trức lại tâu: "từ Ninh Bình qua Thanh Hóa, Nghệ An, đàng Cảng đời Trần, đời Lê đào, dấu cũ đương còn, nhơn đó mà xoi vét ra, thời ghe thuyền đi thông được". Ngài nghĩ lời Nguyễn Mẫn và lời Nguyễn Đức Trứ tâu hơi giống nhau, rồi khiến quan tỉnh khám mà làm. Đến đây qua tỉnh Nghệ An tâu: "đàng Cảng cũ ở hạt ấy, phía bắc từ cửa Xước cảng tiếp giáp biển Quảng Bình, nếu cho đào thời công từ đều tiện; chỉ có công trình trọng đại lắm, mà dân trong hạt cực khổ đã lâu, chưa được bình phục, xin hoãn 3 năm sẽ làm". Ngài ban rằng: Việc ấy tiện lợi lắm, ngày nào có thể khởi công được, cho phép phúc tấu, không cần chờ đến 3 năm".
Định lệ "trong ngoài phải đem 3 điều: đức, tài, lao mà xét cử các thuộc viên". Lại định lệ "bổ quan". (Cũng chiếu theo 3 điều trên mà làm).
Quang Lộc tự khanh Nguyễn Tư Giản (người Bắc Ninh) điều trần công việc trị hà: 1. Xin đắp đê ở biển để bớt thế nước, 2. Xin sửa bờ đập, cửa cống, để phòng khi nước to, 3. Xin ngăn con nhánh, để giữ đàng sông cái chảy cho mạnh; 4. Xin vét đàng cũ để trổ nước; 5. Xin lấp đàng nước đục, cho khỏi bùn lầy; 6. Xin trữ của cho sẵn, để trù việc chi phí; 7. Xin hậu cấp tiền công, để cứu dân khổ; 8. Xin quyên của cho nhiều, để giúp những công việc lớn; 9. Xin đặt hà đinh để coi việc canh giữ cho chuyên). Ngài cho Nguyễn Tư Giản lấy bổn chức sung Hiệp lý đề chánh sự vụ để cho được tỏ hết tài học.

1 Cách lưu là bị cách mà còn để ở chức đó.


2 Khai phục là cho phục lại chức cũ mà đã bị cách

Tháng 10, dụ các quan cử người có văn, võ tài lạ.

Tháng 12, ban cấp Kinh, Truyện, Sử cho các ông Hoàng đệ mỗi ông 1 bộ. Ngài dụ rằng: "xưa ông Đông Bình1 ham học, vua nhà Hán ban cho sách Bí thơ, ta cho việc ấy đáng khen lắm. Nay các em nếu thiệt hay dụng tâm trong mấy bộ sách nầy, thời nghĩa đã rõ, đủ thấu biết tinh thần; nghe lại nhiều, đủ tu nên đức nghiệp; chớ để Đông Bình được tiếng tốt một mình, thời vui gì còn hơn "!.

Kinh lược xứ Nam Kỳ và Đốc phủ tỉnh An - Hà dâng sớ tâu: "tỉnh Hà Tiên là chỗ địa đầu quan yếu; (gần sát bờ biển, tiếp giáp nước Xiêm, nước Lạp) mà xưa nay chỗ Tỉnh, Phủ chỉ đặt tạm lỵ, chưa có đắp thành, bảo. Nay xin lập tỉnh bảo ở sau bảo Trấn Biên, dưới núi Ngũ Hổ; lập phủ bảo ở dưới núi Tô Châu cho vững bờ cõi". Ngài nghe theo.

Định lại lệ "đắp uynh mả các quan viên". (Mộ quan nhứt phẩm, được 90 thước2.
Năm Mậu Ngọ thứ XI (1858) tháng giêng, quan Đề chánh Võ Trọng Bình xin trù kê công phí về việc đào sông Thiên Đức và đắp bờ đê ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên, Ninh Bình tâu lên, nhưng xin để tới năm sau sẽ khởi công, Ngài nghe theo.

Trương Đăng Quế tâu: "bờ đê Bắc Kỳ, chỉ có Hà Nội xung yếu hơn, tôi trước đã đến khám, (nguyên Đăng Quế đi Khâm sai về) thời các bờ đê tại Hà Nội, Hưng Yên thường bị xoi lở, tuy địa thế thấp, ngọn nước xung chọi nên thếe, mà cũng tại bờ đê chưa được bền chặt, không nên đổ tại nước mà làm hại. Bây giờ phải lấy việc sửa bờ đê làm gấp, mà các bờ đê Hà Nội, Hưng Yên nên sửa trước, thuê dân làm công để thay việc chẩn thại, hễ sửa đắp bền chặt cũng giữ được vài năm, rồi sẽ tính mở đàng sông khác, mưu việc trăm năm lâu dài, mới là vững vàng; còn như đàng cũ sông Thiên Đức, phải nên vét đào, mà cũng phải tùy thế mở cửa sông khác, dẫn nước về phía đông, mới giữ được cái lợi vô cùng; nếu chỉ lo đào một sông Thiên Đức, e chưa đủ bớt sức nước chảy; đến như sông Thanh Hương vẫn nên mở thông, nhưng chẳng qua đỡ bớt một ít mà thôi; chỉ có nghị đào sông Hoạch Giang tỉnh Ninh Bình, để trổ bớt nước sông Hát Giang, việc ấy nên làm lắm". Ngài cho phải, khiến lục giao cho quan Đề chánh biết mà làm.

Tháng 6, truyền dụ quan địa phương phải mở điều lợi, trừ điều hại, cử người hiền, bỏ người tham.

Tháng 7, có 12 chiếc tàu Đại Pháp vào cửa Hàn, bắn phá các bảo đài. Việc ấy tâu lên, Ngài sai

Đào Trí hội đồng với quan Tổng đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng cự đánh. (Rồi sau Trần Hoằng nhơn Hải

Thành bị hãm, phải cách hiệu, Đào Trí được quyền Tổng đốc).

Quân Đại Pháp hãm lấy 2 thành An Hải và Điện Hải. Ngài sai Hữu quân Lê Đình Lý làm Tổng thống, đem cấm binh 2.000 cự đánh. (Từ khi 2 thành ấy thất thủ, lòng Ngài nóng nảy lắm, tiết thứ nghiêm dụ: hoặc khiến lựa chỗ đóng đồn, hoặc khiến lựa thế quyết đánh, hoặc khiến nhơn ban đêm vây đánh, hoặc quở trách các tướng dùng dằng. Ngài chỉ bảo, phương lược cũng đã nhiều lần).

Lính Đại Pháp vào làng Mỹ Thị nhổ rào đồn, phá núi đất; Lê Đình Lý cự đánh tại làng Cẩm Lệ, bị đạn, thương nặng, lính tráng sảng sốt chạy hết; Đình Lý về tỉnh Quảng Nam trị bệnh, rồi mất. Ngài sai Thống chế Châu Phước Minh đến thay, rồi lại dùng Kinh lược Nguyễn Tri Phương sung chức Tổng thống, đổi Phước Minh làm Đề đốc.

Tháng 10, lính Đại Pháp vào sông Hàn và sông Thị Nại, bọn Đào Trí chia binh phục đánh, đuổi chạy.

Tháng 11, lính Đại Pháp thình lình xông phá 2 đồn Hóa Quê và Nại Hiên, Hiệp quản Nguyễn

Triều và Nguyễn An cự đánh hết sức, bị chết; bọn Phước Minh cứu viện không kịp. Việc ấy tâu lên, Ngài ban rằng: "quân đã cô, cứu viện lại không có, 1 quan Tướng đã khó tìm, huốn chi chết đến 2 ! Bọn Tổng thống không đau lòng hay sao?" Các Tổng thống đều bị giáng phạt, còn mấy người tử trận đều được tặng cấp. Bấy giờ Nguyễn Tri Phương phái lính sửa đồn lại, chia đặt vọng lâu xích hậu, để cứu ứng cho

1 Đông Bình vương tên là Thương, em vua Hán Minh đế.

2 90 thước là kể từ nơi mộ trở ra, thành ra bề ngang và bề dài đều 180 thước. mau. Bọn Phước Minh mỗi ngày chia quân qua các đồn, gặp lính Đại Pháp, quân mình cự bắn đuổi được. Ngài than rằng: "chưa được trận gì hơn, luống nhọc lòng ta trông đợi mà thôi !".

Nguyễn Tri Phương mới đến quân thứ, mật xét tình trạng, tâu sự nên đánh nên giữ. Ngài dụ khiến Tri Phương vẽ địa đồ và bày mưu mẹo dâng Ngài xem. Tri Phương tâu: "bên họ đánh thời lợi, bên mình giữ thời hơn, bây giờ xin giữ cho vững để làm cách cự chiến: đắp thêm đồn lũy, lần lần xông tới". Ngài ban rằng: "bên đánh kh6ng bình, họ dễ cử động, mà mình khó châu đáo. Vậy việc giữ có 6 điều hại: (1. Động tĩnh không cẩn mật; 2. Khí cụ không tinh xảo; 3. Thám tử báo lầm; 4. Đồn, lũy không coi khắp; 5. Quân tâm nhút nhát, tướng lệnh không nghiêm; 6. Binh chia thời sức yếu, phòng chỗ nọ bỏ chỗ kia). Ngài đã ban lời dụ chỉ vẽ rồi, lại truyền Tri Phương phải tùy việc khuyên răn quân tướng, và nghĩ mưu này lập thế kia, phòng giữ các đạo binh, cho khỏi lo về sau, rồi sẽ chuyên ý xông tới, lần hồi dẹp yên, mới nên công lớn được.

Tháng 12, bọn Nguyễn Tri Phương đắp đồn Liên Trì. Lính Đại Pháp chia đạo đến đánh đồn Thạc Giảng và Nại Hiên; quân phục ta bắn lui được. Việc ấy tâu lên, Ngài ban rằng: "từ trước đến giờ chưa thấy dùng mưu gì lạ, từ nay về sau, nếu có giao chiến, phải chia lính mạnh phục các nẻo, để triệt đàng quân họ trở lui".

Ngài ban cho Nguyễn Tri Phương 1 thanh ngự kiếm và sâm quế hạng. Tri Phương đắp lũy dài từ Hải Châu đến Phước Minh, Thạc Giản, ngoài lũy đào hầm hình chữ phẩm, cắm chông, đổ cát và lấp cỏ lên trên, chia đặt quân phục, sát tới thành Điện Hải. Lính Đại Pháp chia 3 tiền đạo đến đánh, quan quân giữ lũy bắn, quân Pháp phải lui.

Khiến quan tỉnh Quảng Nam sắm đồ trâu rượu khao quân. (Tiết thứ đã thưởng bạc tiền quần ao, đến đây lại đãi trâu rượu).

Học trò tỉnh Bắc Ninh là Nguyễn Đức Y xuất của nhà lập nghĩa thương. Đặt hương điền giúp nuôi binh dân, châu cấp người nghèo, tiền lúa dùng được rộng rãi, các làng bàn cận đều tin phục. Quan Tỉnh đem việc ấy tâu lên, Ngài thưởng 1 đồng tiền bạc và cặp áo, tha binh diêu thân thuế 8 năm.
Năm Kỷ Vị thứ XII (1859) tháng giêng, lính Đại Pháp bắn phá các đồn Lương Thiện thuộc tỉnh Biên Hòa, Phước Vĩnh, Danh Nghĩa thuộc tỉnh Gia Định; vào cửa Cần Giờ chận sông Phu Giang thuộc tỉnh Biên Hòa, hãm lấy các đồn Tả Định, Tam Kỳ thuộc tỉnh Biên Hòa, Bình Khánh, Phú Mỹ, Hữu Bình thuộc Gia Định, liền tới bức thành Gia Định. Quan Hộ đốc Võ Duy Ninh chạy giấy các tỉnh hội binh cứu viện, Duy Ninh tự tử.

Lính Đại Pháp đánh hãm thành tỉnh Gia Định. Khi ấy luôn mấy ngày lính Đại Pháp đã bắn phá các đồn gần sông, nhơn chạy tàu thẳng tới bến sông trước mặt tỉnh thành bắn vào; lại có 1 toán quân lên bộ quanh thành đuổi đánh, quan quân mình thua chạy hết, thành bị hãm, lại bắn phá thành, đốt dinh trại kho tàng, rồi lui tàu đậu tại con sông phía dưới đồn Hữu Bình. (Trước khi ấy, Ngài nghe báo thành Gia Định bị vây, lập tức sai các đạo quân binh tới cứu, quân mới ra đi thành đã hãm rồi).

Tháng 2, truyền dụ Nam, Bắc các địa phương phải dạy tập biền binh.

Khi ấy quan Thống đốc quân vụ đại thần Tôn Thất Cáp đóng binh tại Biên Hòa, Ngài truyền dục quân qua tỉnh Gia Định phòng liệu.

Đặt súng đồng, địa lôi tại các đồn ở cửa Thuận An và thêm lính phòng giữ.
Tháng 4, tàu Đại Pháp bức tới bờ biển trước đồn Phước Minh và Thạc Giản, (tàu máy 9 chiếc, xam bản hơn 20 chiếc) chia binh bọc bắn, đạn xuống như mưa, tới hãm đồn Du Xuyên. Hiệp quản Phan Hữu Điển ra sức cự đánh bị chết, các đồn bị mất luôn. Bọn Nguyễn Tri Phương lui về đồn Nại Hiên, Liên Trì. Việc ấy tâu lên, Ngài dụ quan Thứ thần phải khích khuyến tướng sĩ, quyết đánh một trận để báo thù, nếu coi thế không được thời phải cố giữ, cho vững lòng quân.

Tháng 6, Đại Pháp sai người đến nghị hòa, xin ta phái quan tới hội. Quan quân thứ tâu lên, Ngài khiến Nguyễn Tri Phương chuyên coi việc ấy; lại truyền quan bộ Binh rằng: "Nước Pháp đã sai người đến nghị hòa, mà còn dung túng quân lính đốt phá (Quảng Nam Khánh Hòa) làm như vậy mà muốn nên hòa cuộc được đâu?" Liền truyền dụ quan Quân thứ lấy điều ấy hỏi lại; quan Tướng nước Pháp trả lời rằng: "từ rày về sau không làm thế nữa".


Ban thưởng Nghĩa dân tỉnh Vĩnh Long và Gia Định. (Mỗi làng 1 bức biển khắc 4 chữ "Hiếu nghĩa khả phong" vì dân ấy quyên tiền gạo giúp quân).

Tháng 7, Nguyễn Tư Giản dâng mật sớ tâu không nên nghị hòa. Ngài hỏi quan Cơ mật. Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản tâu rằng: "người Pháp nguyên xin có 3 khoản: 1. Khoản xin đất cắt, điều ấy quyết không nên cho; 2. Khoản thông thương, thời từ khi Quốc sơ đến nay, đã có định lệ; 3. Khoản dạy đạo Thiên Chúa, thời từ Trần, Lê cũng đã thế, nhơn gần đây cấm ước nghiêm quá, nên chi họ phải xin, bây giờ ta nên tha điều nghiêm cấm, mà được nghỉ binh yên dân, thời hòa là tiện hơn".

Tổng đốc An Hà Cao Hữu Bằng mất (Hương cống phủ Thừa) Hữu Bằng trải thờ 3 Triều, một lòng kính cẩn từng đương chốn biên khổn, dân và mọi đều mến phục, Ngài thương lắm, cho tặng hàm Hiệp tá.

Truy tặng các quan tuẫn tiết1 rốt triều Lê từ Lê Quýnh trở xuống, cả thảy 23 người, (đều được ban thuỵ hiệu lập nhà thờ tại Hà Nội).

Truyêèn chỉ dựng bia Liệt Nữ Phan Thị Thuấn tại làng Thúy Aùi tỉnh Hà Nội. (Thị Thuấn là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, vợ hầu quan Quản tiền trạch đội nhà Lê là Ngô Cảnh Hoàn; khi ấy có giặc Tây Sơn, Cảnh Hoàn cự giặc tại sông Thúy Aùi, bị tử trận. Thị Thuấn nghe tin không khóc cũng không để tang; hoặc có kẻ chê cười, Thị Thuấn đáp rằng: "chồng tôi chết vì việc nước, chết vậy là sướng, còn buồn rầu làm chi nữa". Được hơn một tháng, Thị Thuấn đến bờ sông ấy, đặt bài vị chồng lạy khóc, rồi nhảy xuống sông tự tử).

Tỉnh Quảng Nam dân đói, lòng Ngài thương xót lắm, truyền các quan rằng: "giời dân, giời lúa2, đời xưa cũng có làm việc ấy". Liền truyền dụ các tỉnh Bình Định, Phú Yên chở lúa ra Quảng Nam, lại đem dân đói vào Nam Kỳ.

Trước đã truyên dụ ân quan xét người có tài văn võ, mà các quan địa phương cử chưa được người. Nay Ngài lại truyền dụ rằng: "trong mười bươc chắc có một bụi cỏ thơm, trong ngàn ngựa có một con ngựa hay, lẽ đâu trong đời không có nhơn tài, e các người chưa biết mà thôi. Xưa Bách Lý Hề3 nếu không gặp Công Tôn cử lên, đến già cũng cứ nuôi trâu: Gia Cát Lượng4 nếu không có Thủy Cảnh tiến lên, trọn đời ở trong lều cỏ. Nên chi các tôi đời xưa như Ngu Doãn Văn5 có tài quán lục, Lữ Mông Chánh6 có giáp đại thơ, khăng khăng cầu người hiền, để dâng cho vua. Nay các ngươi đã chẳng hay lấy mình đương việc, làm cho có công nghiệp to, lại chẳng hay vì nước cử người hiền, thời lấy ai giúp ta? Các ngươi phải hết lòng hỏi xét, được người nào giỏi cử lên, chớ nên không".

Tháng 10, truyền trong ngoài bớt việc văn án. (Nếu chẳng phải việc gì trọng, án gì trọng, đều cho để đến rốt năm kê sách một lần).

Lính Đại Pháp bắn phá pháo đài Định Hải tỉnh Quảng Nam, chiếm đồn Chơn Sảng, đàng Hải Vân ngạnh trở. Ngài sai quan Thống chế Nguyễn Trọng Thao sugn chức Đề đốc quân vụ, đem binh cự đánh.

Nguyễn Tri Phương sửa đắp đồn lũy, chia quân đóng các nơi. Tháng 12, truyền lập Nghĩa thương.

1 Tuẫn tiết là vì nước mà bỏ mình.

2 Giời dân, giời lúa là cưu khi mất mùa dân đói việc ấy xưa vua Long Huệ Vương ở đời Chiến Quốc có làm, sách Mạnh Tử đã nói rõ.

3 Bách Lý Hề đời Xuân Thu, khi còn hàn vi phải nuôi trâu, Công Tôn Chi biết là người hiền cử lên vua Tần Mục Công dùng làm tướng.

4 Gia Cát Lượng tên chữ là Khổng Minh, đời Tam Quốc ở ẩn thảo lư, Tư Mã Huy hiệu Thủy Cảnh biết có tài, tiến cho Lưu Bị dùng làm Quân sư.
5 Ngu Doãn Văn làm tướng nhà Tống, nghe ai có tài, đều chép tên vào sổ, để cử dùng, kêu là Tài Quân lục.

6 Lữ Mông Chánh cũng làm tướng nhà Tống, nghe ai hiền biên tên bỏ đãy, tức là Giáp đại thơ, để nhớ mà cử lên.

Buổi ấy Cao Man ý muốn làm phản, Ngài khiến quan tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, Định Tường, Gia Định, phòng bị các chỗ địa đầu quan yếu.

Năm Canh Thân thứ XIII (1860), tháng giêng, tàubinh Đại Pháp ở vũng Sơn Chà chạy đi, nhưng còn ở lại Chơn Sảng và Đà Nẵng. Ngài dụ khiến 2 đạo quân thứ Quảng Nam và Hải Vân nhắm thế mà chỉnh bị.

Quan soái Đại Pháp Ba Dụ nhờ các quan Quân thứ Gia Định đưa tờ hòa thơ nói 11 khoản: (1. Đại Pháp cùng Đại Nam giao hiếu muôn năm cho tỏ nghĩa lớn; 2. Như có tờ quốc thơ thời sẽ giao tại cửa Hàn rồi đi đàng bộ để đến Kinh; 3. Nước ta giao hiếu với nước nào, thời Pháp cũng đãi như nước anh em; 4. Dân ngu đã chịu làm thuê với Pháp, xin đừng bắt tội; 5. Đại Pháp cùng Nguyên soái nước ta đóng ấn vào tờ hòa ước, rồi tàu binh liền ra khỏi cửa; 6. Người đạo Gia Tô làm quấy, thời theo luật trị tội, nếu biết giữ phép thời không được tra bắt; 7. Nếu bắt được cố đạo, xin tha xiềng giao về nước Pháp. 8. Tàu Pháp vào cửa buôn bán, không được ngăn đón bức sách; 9. Xin cấp một bổn hòa ước cho nước Y Pha Nho (Espagne); 10. Cho cố đạo qua lại các làng theo đạo khuyên dạy; 11. Xin đặt quan Sứ ở cửa biển lập phố buôn bán). Quan Quân thứ chước nghĩ trong mấy khoản, chỉ có 8 khoản trên không quan ngại chi lắm, quyền tạm biên nhận xin y; còn 3 khoản sau (cấp tờ hòa ước cho Y Pha Nho; cho cố đạo qua lại dạy đạo; quan Sứ lập phố buôn bán). Không dám y theo. Đem việc ấy tâu lên, Ngài khiến Đình thần hội nghị, mỗi người bàn mỗi khác.

Sách Khâm định nhơn sự kim giám làm rồi. (Luân lý, hình thể, phẩm hạnh, cảnh ngộ, ngôn ngữ, văn học, võ lược, nghệ thuật, cả thảy 8 mục).

Nước Cao Man xâm tỉnh An Giang, Hà Tiên. (Khi ấy các tướng giặc ngoài Bắc đã bắt giết nhiều, mà An - Hà lại sanh giặc).

Tháng 3, Đại Pháp sai đốt các đồn An Hải, Điện Hải tại núi Sơn Chà, rồi những tàu binh đậu vũng Sơn Chà đều chạy đi hết. Ngài dụ quan Quân thứ và các địaphương chỗ nào có hải phòng phải phòng bị chi nghiêm ngặt.

Đốc học Nam Định là Phạm Văn Nghị khi trước có xin đem thân biền, binh dõng ứng mộ hơn 300 người, vào quân thứ Quảng Nam đánh giặc. Bây giờ Văn Nghị đem quân tới Kinh, vừa gặp tàu Đại Pháp đi rồi, Ngài truyền lệnh cho về hết, nhưng ban tiền bạc để khuyên người có lòng ứng mộ giúp nước.

Tháng 4, sao Thái Bạch hiện ban ngày, đến tháng 6 mới lặn.

Có 23 làng trong tỉnh Quảng Nam quyên tiền lúa, đặt xã thương, Ngài ban thưởng có phân biệt. Truyền đòi Tổng thống Nguyễn Tri Phương, Tham tán Phạm Thế Hiển thâu quân về Kinh.
Tháng 5, tỉnh Bình Định gió bão.

Sao Chổi mọc phía tây bắc, dài 5 thước, mỗi đêm cao lần lên.

Tháng 6, cho 5 người cháu các quan văn võ (Nguyên Thượng thơ Nguyễn Đình Đức; tặng Hiệp tá Hoàng Kim Xán; tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tín và Ngô Thành) viện theo tổ ấm vào trường Giám học tập. Trước chưa định lệ ấm tôn, đến nay bộ Lễ tâu xin, Ngài gia ơn đều giao cho quan trường Giám hạch bổ vào Giám.

Tháng 7, cho quan Đông các đại học sĩ, Tráng Liệt Bá Nguyễn Tri Phương sung chức Gia Định quân thứ Tổng thống quân vụ đại thần, đổi Tôn Thất Cáp làm Tham tán. Trước khi ấy, Ngài đem việc trong Gia Định nên đánh nên hòa, hay là nên giữ, và những mưu mẹo nên xử trí thế nào mật hỏi Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển - hai ông ấy tâu rằng: vừa giữ vừa đánh tiện hơn; lại đem những việc cần kíp nên xử trí thế nào bày tâu cả. Ngài cũng cho là phải. Đến nay Ngài bảo Tri Phương rằng: "Nguyên soái Nam Kỳ, hiện bây giờ không ai bằng ngươi, từ Đình thần đến quân sĩ đều nói như thế, ngươi không nên chối từ; còn như Quảng Nam nếu gặp việc gì, phải có 1 Đại viên vào đó coi sóc, ngươi nên lựa người giỏi cử lên. - Tri Phương tâu: sự thế hồi nay, so với ngày trước khó xấp 3 xấp 5; vả lại, quân dân của đã hết, sức đã yếu, lại không ví như lúc trước được; khi tôi còn ở Quảng Nam, nghĩ thẹn không công trạng gì, nhưng chức phận làm tôi, dẫu sai đi đâu cũng phải vâng mạng còn coi sóc việc trong Quảng Nam, tôi xét có Phan Thanh Giản và Nguyễn Bá Nghi ở Chánh phủ đã lâu, quân cơ biết rõ, thiết tưởng 2 người ấy sung chức ấy được". Ngài khiến Tri Phương đi. Lúc ra đi, Tri Phương lại mật tấu 6 việc: (1.Xin chăm việc binh, tài; 2. Xin yên ủy xứ Bắc Kỳ; 3. Xin bày cách chở súng; 4. Xin phái thêm Phạm Thế Hiển; 5. Xin kết hiếu với Xiêm La; 6. Xin trách hỏi Cao Man). Ngài đều nghe cả, lại dụ rằng: "việc ngoài biên khổn, ta giao cho ngươi, phải hết lòng đánh dẹp, khiến cõi Nam êm lặng, để khoan lòng ta lo lắng đêm ngày". Ngài ban cho bài thơ để khuyến miễn và ban gấm, the, sâm, quế các hạng.

Truyền quan lại Bắc Kỳ phải chăm an dân và làm cho đủ thuế nhà nước. Lại truyền lục bài Lại Châm ban khắp cả trong ngoài. (Bài ấy chép ở trong Ngự chế văn sơ tập).

Trương Đăng Quế dâng sớ xin về hưu trí, Ngài chuẩn cho lấy nguyên hàm Quản lý Binh bộ, sung chức Cơ mật viện đại thần, Kinh diên giảng quan Đăng Quế duyệt trước, thự lên rồi sẽ tâu, nhưng cho ở nhà tư dưỡng bệnh; hoặc 10 ngày hay 5 ngày một lần vào chầu; nếu có việc chánh sự lớn cũng dự nghị; Ngài lại cho phép được đi võng đến ngoài cửa Nhựt Tinh, Nguyệt Anh, để tiện tới chầu cho khỏi mệt nhọc.

Quan binh tỉnh An Giang đánh đuổi quân Cao Man ở núi Thất Sơn.

Ngài thường kính đọc tờ Di chiếu mỗi tháng vài lần. Trong tờ chiếu có 16 chữ: kỉnh thiên, pháp tổ, cần chánh, ái dân, thân hiền, đồ trị, chỉ thiện; đôn thân; nghĩa là: kính trời, bắt chước Liệt thánh, siêng việc chánh, thương dân, thân người hiền, lo trị nước, giữ điều phải, yêu bà con. Ngài nghĩ mấy chữ ấy là rất thiết yếu, nhơn làm bài thơ kính ghi, để cho dễ đọc và nhớ lâu. (Bài thơ chép ở Thi sơ tập).
Tháng 10, mọi Quang Nghĩa thường xuống cướp bình dân, quan Tỉnh là Nguyễn Tăng Tín trù nghĩ những cách phòng giữ tâu lên và nói một mình coi ngó không khắp, xin sung lãnh chức Tuần phủ, tới đó phòng giữ.
Tháng 11, binh Đại Pháp đánh lũy mới Gia Định, quân ta thắng trận, ngài chuẩn thưởng bọn Nguyễn Tri Phương và truy tặng cấp tuất các người tử trận.
Khiến trong và ngoài từ nay về sau không được mạo đặt các danh mục (như là các Tuần tổng, Tuần huyện, Cán tổng, Cán huyện. Nếu còn trái phép, trị tội.

Ngài nghĩ rằng an trên trị dưới, chẳng chi hay hơn lễ, truyền bộ Lễ châm chước nghĩ định trong Triều đình các Hoàng thân và các quan Văn, Võ khi yết kiến thế nào, khi gặp nhau thế nào; và lễ ngoài dân gian hương ẩm vị thứ thế nào, nam nữ hôn thú thế nào; kê khoản dâng lên. Ngài chuẩn cho biên làm lệ.

Có 4 chiếc tàu Đại Pháp chạy đến ngoài cửa Bân Côn tỉnh Vĩnh Long thả neo đậu lại; rồi đến thêm 5 chiếc nữa đậu lại cửa biển Ngao Châu. Ngài nghe báo, truyền các cửa phòng bị cho nghiêm.
Năm Tân Dậu thứ XIV (1861), tháng giêng, quan Đề chánh Nguyễn Tư Giản xin vét thẳng sông mới (từ Phước Lại đến Tư Cang) cho thông đàng nước. Ngài nghe theo.

Khiến các quan sung khởi cư chú ở viện Tập Hiền hội làm sách sử yếu (khởi đầu từ Ngũ đế đến đời Nguyên, Minh, đại lược như thể sách Giám toát) mỗi 5 ngày một lần tấn lãm.

Quân Đại Pháp tới đánh đồn Gia Định, quan quân ta lui đóng ở tỉnh Biên Hòa. Khi ấy tàu Pháp đến thêm 30 chiếc, lính hơn 10.000 người, chầu súng bắn vào đồn, bắc thang leo lên lũy, quan quân đối địch không nổi, đồn bị phá, Nguyễn Tri Phương lui về tạm tỉnh1; Đại Pháp lại đem vài ngàn lính ngày nào cũng bắn, quan quân ta không chống nổi, lại lui đóng tại tỉnh Biên Hòa, quan Tỉnh cũng dời tới đó ở chung. (Vừa rồi trận ấy, Phạm Thế Hiển mất).

Lính Đại Pháp đánh phá thành tỉnh Định Tường. Trước khi ấy có 14 chiếc tàu vào đậu vũng Cù Oác; sau vài ngày lại tới thêm một chiếc nữa; còn cửa Bé, cửa Lớn, đều có tàu Pháp đậu ở ngoài biển. Lãnh Tổng đốc Nguyễn Công Nhờn đưa thơ qua lại, quyền làm kế hoãn binh. Tàu Đại Pháp lại tới thêm 3 chiếc, đều vào đậu phần biển làng Tường Khánh. Bọn Công Nhờn xuất binh dõng qua đồn Tân Hương cứu viện; đạo binh Pháp xông đến ngào lũy bắn luôn mấy ngày, quân ta bắn không lại, lui giữ đồn Tịnh

1 Tạm tỉnh là đặt ra 1 chỗ như tỉnh lỵ để ở tạm, chớ không phải thiệt tỉnh thành.

Giang, rồi cũng chạy tan, binh Pháp liền bức tới thành tỉnh, Công Nhờn nhảy xuống chiếc thuyền con lánh đi chỗ khác, quân lính chạy trốn hết thảy; lãnh Tuần phủ Nguyễn Hữu Thành mở cửa thành chạy. Ngài nghe việc 2 thành thất thủ, truyền đình thần định tội quan Quân thứ và quan tỉnh; nhưng trách giao mấy ông quan đó phải thâu nhóm quân sĩ, để lo báo phục trận khác.
Ngài ngự cửa Thuận An, xem thấy cửa biển bồi cạn quanh co, ngày thêm yêu biển, cho là Thần biển linh thiên giúp nước, truyền quan tế miếu Long Vương; qua ngày sau ngự về.

Tháng 4, cho Tổng đốc Trương Văn Uyển, Tuần phủ Phan Khắc Thận sung chức Phòng tiễu quân vụ, Tả lý Đỗ Thúc Tĩnh Phủ thừa Nguyễn Túc Trưng sung chức Khâm phái quân vụ (rồi Văn Uyển, Khắc Thận, thúc Tịnh được lãnh Đốc, Phủ 4 tỉnh Long, Tường, Định,Hà).

Truyền dụ đem mười việc sau này xét cử những người có tài lạ: (1. Thuộc binh Pháp; 2. Mạnh bạo hơn người; 3. Võ nghệ hơn chúng; 4. Biết thiên văn; 5. Tinh địa lý; 6. Cơ biến tinh tường; 7. Nói phô lanh lợi; 8. Học thuốc giỏi; 9. Thánh thính hay; 10. Kỹ nghệ khéo).
Khi trước Ngài cho Thượng thơ bộ Hộ Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần. Bá Nghi đến Biên Hòa, nghĩ rằng đánh giữ chưa tiện, có xin ủy người tới giảng hòa, làm kế hoãn binh. Bây giờ Bá Nghi đem hiện trạng tâu lên, Ngài đưa sớ ấy cho Trương Đăng Quế. Đăng Quế tâu: "người Pháp muốn ở Gia Định, lại toan lấy Định Tường, Biên Hòa, e hòa cuộc không xong; trừ việc đánh việc giữ, thời không có chước gì khác". Ngài lại dụ Bá Nghi hoặc có chủ ý gì cho phép tâu ngay. Bá Nghi lại tâu: "Sự thế Nam Kỳ, chỉ có hòa mới được, chẳng thế còn sanh điều ngại khác". Ngài truyền rằng: "sự thế khó làm, ta đã rõ rồi, ngươi phải hết lòng hết sức, để cho tỏ tài giỏi trong lúc nguy biến, cũng như biết có cứng trong lúc gió to".
Tháng 5, mới định lệ "Tú tài tuổi 40 trở lên, hạch đậu được bổ quan". (Ai đậu ưu, đầu bổ chánh cửu, thăng đến chánh thất là chỉ hàm; hạng bình, đầu bổ tùng cửu, thăng đến chánh bát là chỉ hàm; hạng thứ, đầu bổ Thừa phái thăng đến chánh cửu là chỉ hàm; đã chỉ hàm rồi, thời sau theo lệ "quan nhơn" mà thăng).
Bản Thực lục chánh biên chép việc triều Thánh tổ Nhơn Hoàng đế đã làm rồi.

Nước Y Pha Nho phái 1 chiếc tàu tới nhờ quan Quân thứ Biên Hòa đệ thơ cầu hòa. Quan quân thứ đem thơ dâng lên. (Tờ thơ nói: xin ở núi Đồ Sơn, lập sở Tuần ty tại huyện Nghiêu Phong tỉnh Quảng Yên, trong 10 năm sẽ trả lại; nếu không cho, thời gây việc tới Bắc Kỳ). Ngài không cho, dạy thơ trả lại thơ; rồi tàu ấy ra cửa Cần Giờ (thuộc tỉnh Gia Định) chạy đi. Việc ấy tâu lên, Ngài khiến quan Cơ mật lường xét chú ý họ thế nào. Cơ mật tâu: "cứ như tin vừa báo đây, hoặc sanh sự ở hòn Cát Bà (thuộc tỉnh Quảng Yên) để chia thế quân ta, mà cho thiệt lời họ nói trước". Ngài khiến quan sở tại phải lo phòng bị.

Bạch khí và sao Trường tinh hiện ra trên trời.
Tháng 6, quan quân thứ Biên Hòa Nguyễn Bá Nghi cùng quan soái Đại Pháp thương thuyết, rồi đem việc cầu hòa mật tâu lên. (Cả thảy 14 khoản). Ngài dụ rằng: "Bá Nghi từ sai ra đến nay, chỉ thấy chú ý nghị hòa, bởi vì không biết lo giữ về sau là cốt tại lúc đầu, mà khinh suất nhận lời, nên chi việc càng thêm khó".
Nghiêm sức các quan địa phương phân tháp giáo dân.

Sao Thái bạch mọc ban ngày, đến tháng giêng năm thứ 15 mới lặn.

Tháng 7, cho Đoàn Thọ thăng Trung quân đô thống, sung chức Phòng hộ sứ cửa Thuận An, Tôn Thất Hàn thăng Hậu quân đô thống, Võ Phẩm gia thủy sư đô thống đều sung chức Phó sứ.
Bọn Nguyễn Bá Nghị dâng tập tâu: "tình hình tỉnh Biên Hòa suy yếu, đánh giữ đã không được, mà hòa lại không xong, xin giảm bớt quân thứ, phái người đi cầu viện nước khác". Ngài truyền dụ quở trách. (Sau tỉnh Biên Hòa thất thủ, Bá Nghị bị giáng Tham tri, hiệp cùng Nguyễn Tri Phương thương tá Bình Thuận quân vụ).

Phó quản cơ Gia Định là Trương Định, (người huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Nghĩa, con quan Lãnh binh Trương Cầm mộ binh dõng đông lắm, thường cự đánh binh Pháp. Việc ấy tâu lên, Ngài cho thăng Quản cơ, rồi lại cho lãnh Phó lãnh binh.
Tháng 9, nghiêm cấm các quân không được đóng góp.

Vua Cao Man là Ong Run chết, hai người con trai tranh chấp rồi trong nước nổi loạn.

Sanh biểu "trung tiết" cho người Gia Định là cử nhơn Phan Văn Đạt và Hương thân Lê Cao Dõng. Khi trước Văn Đạt và Cao Dõng mộ nghĩa dõng đánh giặc, chẳng may đều bị bắt, chẳng chịu khuất phục mà chết. Việc ấy tâu lên, nên Ngài cho sanh biểu, (Văn Đạt được truy thọ hàm Tri phủ, Cao Dõng được truy thọ hàm Suất đội).

Tháng 10, truyền chỉ các quan Tỉnh, Phủ, Đạo lựa lính trong các cơ, đội, tên nào sức vóc mạnh khoẻ, thúc làm lính Võ sanh.

Thúc quân Nghĩa Dõng tỉnh Vĩnh Long.
Tháng 11, binh Đại Pháp đến chỗ Suối Cầu tỉnh Biên Hòa, lính bộ biền ta 2 lần đánh lui được cả. Binh Đại Pháp lại đến 2 làng An Thạnh và Bình Chuẩn thuộc Biên Hòa, Phó Đề đốc quân thứ là Lê Quang Tiến lừa ban đêm lén đánh.
Quân Đại Pháp đánh đuổi đạo quân thứ Biên Hòa, vào chiếm thành tỉnh. Khi ấy Nguyễn Bá Nghi ý chăm về việc giao hòa, nên không lo phòng giữ; đến đây Đại Pháp đem tàu binh đón đàng qua Gia Định, Định Tường, lại giữ 2 cửa Cần Giờ và Phước Thắng, bắn luôn mấy ngày, phá chỗ Đá Hàn; đạo quân thứ rút lui giữ phủ Phước Tuy, tàu Pháp nhơn khi nước lên, chạy thẳng tới thành tỉnh, lấy súng bắn vào, quan Tỉnh thế không chống nổi, cũng lui đóng tại đồn mới Hố Nhĩ, Đại Pháp liền chiếm giữ thành, lại đánh phủ Phước Tuy; Bá Nghi lui quân ở rừng Long Kiên, Long Lập, (thuộc phủ Phước Tuy). Việc ấy tâu lên, Ngài thiết trách quan quân thứ và quan tỉnh, rồi gia ân cho cách lưu, và cho lập công chuộc tội. Lại đòi Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp ra sung chức Đổng nhung quân thứ Biên Hòa. (Khi ấy Tri Phương và Cáp hiện đương hầu án, truyền chỉ đòi ra. Đến năm 15 Tôn Thất Cáp bệnh mất).

Tháng 12, tỉnh Quảng Yên nổi giặc biển. (Cố đạo Trường làm mưu chủ giặc, tôn Tạ Văn Phụng làm Minh chúa; Văn Phụng mạo xưng con cháu Lê tên là Lê Duy Minh; bọn tên Ước, tên Độ làm tướng giặc, sau hiệp với các Thổ phỉ tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, lại thông với giặc Cổ phỉ Tàu). Chúng nó tụ hội ở các phần biển châu Tiên Yên phủ Hải Ninh, ăn cướp của dân, quan binh đánh cũng có khi hơn, mà giặc ấy ngày càng thêm nhiều.

Chuẩn định lệ "nạp của chuộc tội" (các tù quân, lưu, đồ, người nào bị tội rủi ro, hay là bị can liên, đều cho nạp của chuộc tội có phân biệt).

Năm Nhâm Tuất thứ XV (1862) tháng giêng, cho Tổng đốc Nam-Nghĩa là Đào Trí sung chức Kinh lược đại thần, đốc việc lương hướng khí giới, phòng bị từ Quảng Nam đến Bình Thuận.

Quảng Nam trở vào nam, dân bổn hạt vàdân Minh, Thanh quyên của giúp quân nhu, đều được thưởng phẩm hàm.

Truyên chỉ hỏi các tỉnh cử người biết chữ và tiếng nước Pháp. Quan tỉnh Nghệ An và Lạng Sơn, Cao Bằng, tâu cử Nguyễn Trọng và Nguyễn Văn Thự. (Nguyễn Trọng người Nghệ An, đã theo qua Tây về nói: sách Tự vị Pháp chỉ có 27 chữ cái; từ đó bổ thêm, mới thành chữ khác; Văn Thự nguyên người Giáo dân, phạm tội ở tỉnh Lạng Sơn). Ngài khiến giao về Bộ xét hạch.

Ngài nghĩ giặc cướp biển hại, khiến quan Tổng đốc Định, An là Nguyễn Đình Tân sung chức Hải An kinh lược đại thần, Nguyễn Tư Giản làm Tham tá quân vụ. (Được ít lâu, Đình Tân bị triệt về, Tư Giản bị cách hiệu).

Bãi nha Đề chánh, khiến sở tại chiếu trường sửa đắp.

Tháng 2, khiến Phó lãnh binh Gia Định là Trương Định kiêm làm đầu mục mộ nghĩa. Trương Đăng Định đóng đồn tại Gò Công, thường lừa đánh quân Pháp, thân sĩ theo nhiều.

Truyền dụ Nam, Bắc lựa lập dân dõng, hương dõng, thổ dõng để chờ khi cần dùng.
Binh Đại Pháp lấy thành tỉnh Vĩnh Long. Khi ấy tàu Pháp hơn 10 chiếc đến đậu ở phía trên đồn Vĩnh Tùng (các đồn, bảo từ Vĩnh Tùng trở xuống đều thuộc tỉnh Vĩnh Long, đắp để phòng bị). Lính Pháp hơn 1.000 người lên bộ đắp lũy. Tổng đốc Trương Văn Uyển liền sức Lãnh binh Tôn Thất Thoan hết sức giữ đánh, còn Văn Uyển cùng Bố chánh Lê Đình Đức sắp binh chực ứng tiếp. Quân Đại Pháp luôn mấy ngày bắn các đồn lũy, quan quân mình cự đánh không lại, lần lần chạy tan; tàu Pháp chạy thẳng đến bến Thành tỉnh, bắn hỏa hổ vào; Văn Uyển liệu thế khó giữ, nhơn ban đêm đốt binh trại kho tàng, rút binh lui ra đồn Vĩnh Trị, qua đình trú tại huyện Duy Minh. Việc ấy tâu lên, bọn Văn Uyển đều bị cách lưu, nhưng khiến lựa chỗ mà đóng quân, để toan lập công ngày sau.

Tháng 3, có tên Chánh tổng là Nguyễn Thạnh ở Bắc Ninh, tự xưng Nguyên soái, tôn giặc trốn là tên Huân làm nịnh chưa. (Khi trước năm thứ 8, tên Huân đã mạo xưng con cháu Lê, tự lập làm minh chúa, rồi sau đảng nó tan hết, nó trốn đi, nhiều thứ nã bắt chưa được). Lại thông với đảng giặc biển Quảng Yên, tụ hội đến vài ngàn người, xâm các phủ, huyện Lạng Giang, Yên Dũng, rồi tới vây thành tỉnh. Bố chánh Hà Nội Nguyễn Khắc Thuật, Bố chánh Sơn Tây Lê Dủ, Phó lãnh binh Hưng Yên Võ Tảo hội 3 đạo binh tới đánh. Võ Tảo đánh tiếp hơn 10 trận đều thắng cả, Tảo liền kéo quân lướt tới, quân trong thành ra giáp đánh, Thạnh thua chạy, rồi giải vây Bắc Ninh. Tờ báo tiệp tâu lên, Ngài cho Võ Tảo tới trước đáng công đầu, thưởng thọ Lãnh binh, gia thưởng bài vàng, tiền vàng, nhưng lãnh chức cũ; lại truyền chỉ Tổng đốc quân vụ đại thần Tôn Thất Hàn thống quản biền binh lập tức đuổi theo, dẹp yên giặc ấy.

Tháng 4, lãnh Tuần phủ Định Tường Đỗ Thúc Tĩnh mất (Tấn sĩ Quảng Nam) được truy tặng hàm Tuần phủ. Khi trước Thúc Tĩnh thấy thành Gia Định thất thủ, tâu xin quan đó hiểu thị tướng sĩ, chiêu dụ binh dân, để toan khôi phục; có chí mà làm chưa nên. Ngài tiếc lắm.

Quan soái Đại Pháp là Phố Na khiến Xuy Mông chạy tàu vào cửa Thuận An, đưa thơ nghị hòa. Việc ấy tâu lên, Ngài hỏi Đình thần; bọn Trương Đăng Quế xin sai Sứ quan giao thông là phải. Khi ấy Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp xin đi, Ngài chuẩn cho sung Nghị hòa chánh phó sứ toàn quyền đại thần; lại khiến Đình thần nghị định đại ý trong điều ước rồi Ngài lại định thêm, giao cho 2 ông. Đến khi đi, Ngài rót tửu ban cho. Lúc 2 người đến Gia Định, đem đất Gia Định, Định Tường, Biên Hòa nhường cho Pháp, lại chịu bồi 4.000.000 đồng bạc, và cho lập nhà Giảng đạo, mở phố thông thương, cả thảy 12 khoản, biên vào hòa ước; vừa 20 ngày chạy tàu về, đem sự trạng tâu lên. Ngài cho Thanh Giản lãnh Tổng đốc Vĩnh Long, Duy Thiếp lãnh Tuần phủ Thuận Khánh, để cùng quan soái Pháp thương thuyết cho tiện.

Tri huyện Gia Lộc thuộc Hải Dương là Đăng Lang (cử nhơn, người Nam Định) gốc binh đánh giặc, bị bắt, giặc muốn để sống, Lang nhịn ăn đến 7 ngày mà không chết tức lắm, mắng chửi giặc hết sức, bị giặc giết. Khi gần chết, Lang viết tờ thủ thơ có câu rằng: "Ngữ viết thành nhơn, Mạnh vân thủ nghĩa, tích hữu Văn Sơn1, kim khả vô quý. Nghĩa là: trong sách Luận ngữ đức Khổng có nói: chịu liều chết để trọn điều nhơn; trong sách Mạnh Tử thầy Mạnh có nói: thà bỏ sống mà được điều nghĩa; xưa Văn Sơn cũng không hổ gì". Việc ấy tâu lên, Ngài cho truy tặng Hàm lâm thừa chỉ.

Tháng 5, quan Soái Đại Pháp vào cửa Hàn. Tổng đốc Đào Trí xin để lính hạ ban ở lại nghiêm giữ. Ngài truyền rằng: "quan Soái Pháp đến lúc nầy, chỉ coi tình hình mình mà thôi, mình không nên bức họ, cũng không nên sợ hãi, chớ để binh nhiều, nên cho về nghỉ, để dưỡng sức quân". Lại truyền dụ từ Nghệ An trở vào Nam, mộ lính dõng để chực sai phái.

Giặc vây thành tỉnh Hải Dương, quan tỉnh dâng sớ cáo cấp, Ngài sai Thượng thơ bộ Hộ là Trương Quốc Dụng làm Thống đốc Hải An quân vụ đại thần, Thị lang bộ Hộ Phan Tam Tỉnh làm Hộ lý tổng đốc, Chưởng vệ Đặng Hạnh, Lê Xuân đều sung chức Đề đốc, đem lính Kinh và lính Thanh Nghệ đi đánh giặcc. (Có cử nhơn Trương Quốc Quán là con Quốc Dụng đem lính mộ theo quân thứ, Ngài đặc cách cho thăng chức Chủ sự) Ngài lại sai Đào Trí làm Hải Yên tham tán đại thần, đem lính thứ ra Bắc, còn Tổng đốc Nam Nghĩa thời cho Nguyễn Hiên làm Hộ lý.

1 Văn Sơn là hiệu ông Văn Thiên Tường làm Thừa tướng nhà Tống.

Truyền dụ cho bọn giặc Hải Yến, Bắc Ninh, Cao Bằng, Thái Nguyên ra đầu thú và lập điều khoản minh bạch giao quan Quân thứ và quan Tỉnh sao niêm yết khắp nơi, để chiêu dụ quân giặc.

Tháng 6, cho Nguyễn Bá Nghi (Bá Nghi từ Quân thứ Bình Thuận đòi về) sung chức Bắc thứ tham tán đại thần, lại cho lãnh Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên.


Giặc biển vây phá thành tỉnh Quảng Yên, Thương tá Nguyễn Tấn Lục vì giặc đông mà quân mình ít, địch không lại, lui về Nam Định, tâu xin làm mưu nửa đêm đánh lén. Ngài truyền rằng: "Tấn Lục còn biết bày mưu, vậy giao cho Tấn Lục thâu thập quân thất tán qua đánh giải vây cho mau".

Dựng nhà thờ Trần Xuân Hòa (con Trần Tuyên, cử nhơn tỉnh Quảng Trị) mùa đông năm ngoái, lính Đại Pháp vào xứ Mỹ Trang và xứ Bang Lãnh thuộc tỉnh Định Tường, quan binh chia đạo tới đánh. Thị độc học sĩ Trần Xuân Hòa coi đạo binh phòng bị, bị lính Pháp bắt được, Xuân Hòa cắn lưỡi chết. Đến đây Ngài cho truy tặng Quang Lộc tự khanh, lại truyền quan Tỉnh Quảng Trị lập nhà thờ, khiến quan đến tế.

Tháng 7, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp thương thuyết việc trả 3 tỉnh, quan Soái Pháp không chịu; Trương Đăng Quế xin phái người qua hỏi thăm vua nước Pháp, nhơn đưa ra cái lẽ cho rõ ràng việc Pho Na cưỡng bức và Phan Thanh Giản khinh suất nghe lời; nhưng việc ấy rồi bỏ lơ.

Từ khi đã định hòa ước rồi. Ngài truyền dụ Nam Kỳ nghỉ binh và đòi Trương Định ra Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết, tôn Trương Định làm Đại đầu mục, xin cho ra đánh, Đình thần nghị rằng: "bây giờ việc Bắc Kỳ đương khẩn, mà Nam Kỳ chưa có cơ hội gì, xin giao Phan Thanh Giản hiểu dụ". Nhưng Trương Định đã lâu mà không chịu về cung chức, bị cách chức hàm.
Nguyễn Tri Phương từ Bình Thuận về chầu.

Các giặc Mán giặc Nồng bên Tàu qua cướp huyện Tùng Hóa và Đại Từ, quan binh thua chạy, giặc liền vây tỉnh Thái Nguyên, đánh phủ Bình Phú, Tri phủ là Doãn Chánh (con Doãn Uẩn) cự đánh, hơn 3 tháng giặc không lấy được thành. Khi ấy phía tây bắc đàng đi ngạnh trở, quân cứu đã không mà lương lại hết, Doãn Chánh nhơn ban đêm ra khỏi vây, nhảy xuống sông Hanh Giang mà chết. Ngài nghe, khen rằng: "Tri phủ như vậy, thiệt ít có lắm ! Không thẹn với người đời xưa, cũng không thẹn là con nhà danh thần". Cho truy tặng Thị độc học sĩ.
Bọn Trương Quốc Dụng, Đào Trí, Phan Tam Tĩnh từ Hưng Yên đem quân qua phía đông, tiếp đánh 1 trận, đại thắng, lấy lại phủ Bình Giang rồi tới cứu tỉnh; quân tỉnh ở trong thành ra giúp đánh, giặc thua chạy, liền mở cửa thành phía tây rước quân mình vào. Khi ấy, 4 mặt thành nhiều ụ súng và hầm chông của giặc, quân thủy quân bộ nó còn đông, đàng trạm chưa thông được, quan quân mới vào thành, sắp bàn việc đánh, thời giặc đã tới vây lại.

Tháng 8, giặc Huân cùng Nông Hùng Thạc là Thổ phủ tỉnh Tuyên Quang và bọn Hoàng Anh là giặc Cổ Phỉ bên Tàu, hiệp đảng lõa hơn 10.000 người vây tỉnh Tuyên Quang. Bố chánh Nguyễn Tất Tố, Aùn sát Nguyễn Văn Tố nạp thành cho giặc, rồi chạy; giặc liền vào cứ thành. (Rồi sau Tất Tố và Văn Tố đều chết, Ngài dạy dựng bia nơi mả để răn người sau).

Khiến Nguyễn Tri Phươn sung chức Tây bắc tổng thống quân vụ đại thần (rồi thăng Hiệp tá), Phủ doãn Phan Đình Tuyển làm Tán lý, Chưởng vệ Tôn Thât Huệ làm Đề đốc (rồi sau Huệ chết, Ngài nghĩ có công đánh giặc, cho truy tặng Thống chế. Đình Tuyển nhơn gặp binh phục giặc mà chết, Ngài cho thiệt thọ hàm Tuần phủ).

Bọn giặc Cổ phỉ Tàu là tên Lý Hiệp Thắng vây tỉnh Cao Bằng, quan tỉnh là bọn Lê Văn Phổ lui giữ đồn Kho, (rồi dời tỉnh lỵ qua đó) để toan xin quân cứu viện. Tuần phủ Lạng Bình là Phạm Chi Hương đem binh tới cứu, lấy lại thành tỉnh, dâng tờ báo tiệp, Ngài thưởng kỷ lục gia cấp và tiền bạc.

Bọn Trương Quốc Dụng, Đào Trí ở thành Hải Dương đem quân ra đánh, phá giặc tan hết, giải vây tỉnh thành. Trước khi ấy, đã hai lần chia quân đánh phá từng ngả; nhưng không hơn được; các quan lập mưu; ngày nào cũng chia quân làm 2 hàng, hàng trước thời bắn giặc, hàng sau thời lần lần phá ụ đất, lấp hầm chông của giặc, như vậy trót 1 tháng mới rồi; khi ấy quân mình đã có nơi xuất trận, liền ra sức đánh 2 trận, thế mạnh như gió mưa, chém hơn 450 đầu giặc, bắt sống giặc hơn 100 người; rồi đàng đi từ thành tỉnh đến phủ Bình Giang mới thông được; chạy cờ đỏ báo tiệp. (Quốc Dụng liền được thăng Hiệp tá, Đào Trí được thăng Thống chế).

Tháng 9, Ngài cho Cần chánh điện đại học sĩ Trương Đăng Quế thôi coi việc bộ Binh, nhưng còn sung Cơ mật viện đại thần (vì Đăng Quế từ đã 2,3 lần); rồi nhơn Đăng Quế đến thất thập thọ, Ngài cho 1 bài thơ (chép trong Thi sơ tập), và các đồ phẩm hạng để dưỡng, coi sách.
Bọn giặc Thanh lại vây tỉnh Bắc Ninh, dân phụ quách chẳng chịu theo giặc hơn 2.200 người, cùng người ở chung quanh thành trươc bị giặc đốt phá tan đi, nay mới về; quan tỉnh và quan quân thứ đều cấp lương cho. Rồi các quan lại đem quân ra đánh đuổi giặc.

Quan Soái Pháp là Phô Na tư tờ nói: "vua 2 nước (Đại Pháp và Y Pha Nho) đã đóng ấn vào tờ hòa ước rồi, hẹn đến tháng 11, sai Sứ đệ tới Kinh, dâng Ngài ngự xem, rồi để 2 đàng giao tờ cho nhau". Ngài bảo rằng: "trong tờ hòa ước, nhiều chỗ không tiện, mới rồi đây ta đã trách Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp phải ra sức lo liệu cho xong, mà chưa thấy làm được việc gì; nay đã vội hẹn giao tờ hòa ước, thời chẳng biết 2 người ấy thương nghị thế nào"?.

Tháng 10, Võ lao hầu Tạ Quang Cự mất. (Tuổi hơn 90, được tặng hàm Thái bảo).

Tháng 11, dựng nhà thờ Bố chánh Trần Tuyên và Tri phủ Hoàng Hữu Quang. (Năm đầu hiệu Thiệu Trị, giặc thổ dấy loạn, 2 người ấy hết sưc đánh, bị chết). Trần Tuyên người tỉnh Quảng Trị, sanh ra Trần Xuân Hòa. Ngài thường dạy bộ Lễ rằng: "cha con Trần Tuyên đều có danh thơm tiết nghĩa, rực rỡ sử biên, thiệt làkhó đặng lắm"!.

Định lại lệ "thăng trật các quan"; vì mới gần đây, các quan hàm thấp mà sung lãnh chức cao, có người 2 năm được thăng thự, có người 3 năm được thăng thọ, đến đây đổi định lại: (người nào mà không có quan trên xét cử, thời ở phiền nha được 3 năm, hay là ở giản nha được 4 năm, hạn châu đều được thăng thọ; còn lệ 2 năm thăng thự thời bãi; nhưng người nào đã có quan trên xét cử, thời cứ chiếu lệ cũ mà làm).

Thự Tổng đốc An Tĩnh là Võ Trọng Bình dâng sớ tâu 3 khoản đều thuộc về việc tuy phủ xứ Bắc Kỳ: (1. Trừ lệ quan lại; 2. Tha binh lương; 3. Tha tội người ra thú). Ngài cho phải. (Trọng Bình rồi được đổi về Thượng thơ bộ Hộ, sau lại đổi làm Tổng đốc Ninh Thái, sung Kinh lược Lạng Bình).
Đạo quân thứ tỉnh Đông (Hải Dương) đánh giặc tại phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn, đến đâu được đó; quân giặc thủy bộ đều trốn hết, quan quân liền kéo thẳng đến tỉnh Quảng Yên. Khi ấy tỉnh đã giải vây, giặc tới hàng nhiều lắm, tên Minh, tên Ước, tên Độ trốn ra chiếm cứ Đồ Sơn, Cát Bà; Trương Quốc Dụng, Đào Trí đóng quân ở thành tỉnh Quảng Yên, sai Nguyễn Dõng và Nguyễn Tấn Lục phòng triệt con đàng giặc tỉnh Bắc Ninh trốn xuống (khi ấy quân thứ tỉnh Bắc đương đánh giặc tại phủ Lạng Giang). Lại sai đạo quân thủy là Lê Quang Tiến và Bùi Huy Phiên chạy tâu ra đánh bọn giặc trốn ngoài cù lao.

Tháng 12, giặc Huân, giặc Trịnh đóng đồn ở làng Thượng Gia, chận sông Bình Kỳ, Nguyễn Tri Phương nghĩ rằng đồng giặc mặt trước có đàng thông với tỉnh Thái Nguyên, chắc nó phòng giữ kỹ, chi bằng tìm con đàng tắt lén đánh phía sau; Tri Phương liền kéo binh tới đò Kim Anh phía trên sông Bình Giang đánh phá được giặc, lần tới các hạt Hiệp Hòa, Việt An, An Thế, đến phủ Lạng Giang bắt được tên Cận và 7 tên tướng giặc, nhơn dời phủ lỵ Lạng Giang qua làng Cao Thượng, rồi chia 3 đạo binh đánh đảng giặc còn sót.

Năm Quý Hợi thứ XVI (1863) tháng giêng, quan Soái Pháp sai người đến báo rằng: "trong tháng

2 An Nam, Sứ sẽ tới Kinh, và nói những điều khoản Sứ bộ nên làm. Ngài xét trong mấy điều khoản, còn có chỗ chưa thỏa, liền sai Phạm Phú Thứ sung Khâm sai tới Nam Kỳ hội với Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp để thương thuyết cùng quan Soái Pháp, hễ thương xong rồi, thời 3 người đều phải đi trạm về trước cho gấp, đặng sung làm chức Tiếp sứ. Đến Gia Định, 3 người hội thương với quan Soái Pháp và quan đại thần nước Y Pha Nho hội bàn phép tắc vào chầu thế nào, rồi về tâu trước. Ngài chuẩn y nghị mà làm.
Tháng 2, Sứ Đại Pháp và Sứ Y Pha Nho là Phô Na, Pha Lăng Ca đến Kinh làm lễ triều yết. Trước 1 ngày, 2 quan Sứ đều đem tờ quốc thơ và phẩm hạng của vua 2 nước nhờ các quan ta dâng lên, lại xin lãnh tờ quốc thơ nước ta. Đến ngày vào triều, Ngài ngự đền Thái Hòa, 2 quan Sứ làm lễ chiêm cẩn rồi, đãi yến tiệc tại Sứ quán, trả bạc bồi 186.111 đồng, đem phẩm vật tặng hảo vua 2 nước và từ quan Soái Sứ trở xuống. Hai quan Sứ xin về Gia Định, Ngài sai Phan Thanh Giản đi theo. Vì khi ấy quan Sứ có nói: "rồi sẽ giao lại tỉnh Vĩnh Long, vậy nên Ngài sai Phan Thanh Giản theo quan giao nhận cho rồi việc trước. (Sau Phan Thanh Giản thương thuyết không được việc gì, bị cách lưu).

Tháng 3, quân thứ Sơn Tây lấy lại được thành tỉnh Tuyên Quang. Khi ấy Đề đốc Phạm Hữu Xuân, Phó đề đốc Võ Tảo, Thương tá Nguyễn Hữu Tạo chia đạo tấn binh, xông tới thành tỉnh, đảng giặc không kịp vào thành, chạy tan hết thảy, giặc ở trong thành cũng đều chạy trốn; quan quân vào thành, bắt tên Huân bỏ vào cũi giải nạp. Rồi để bọn Võ Tảo ở lại đạo quân thứ Tuyên Quang. Ít lâu, Đề đốc đạo quân thứ tỉnh Bắc Ninh là Nguyễn Diện, bắt được những đảng giặc còn sót, giặc ấy đều yên. (Võ Tảo sau bị giặc bắt, được truy tặng Thống chế).

Lãnh Tuần phủ Lâm Duy Thiếp mất. Sau Triều đình nghĩ Duy Thiếp thương thuyết không được việc gì, truy cách chức hàm.

Trương Đăng Quế về hưu, Ngài ban cho 1 bài thơ và sâm, quế, vàng, lụa, các hạng. Khi về, Ngài khiến Đình thần làm tiệc đưa; lại cho lúc về nhà rồi, mỗi năm được lãnh bán bổng, quan Tỉnh sở tại phải thường tới thăm hỏi. Ngài lại dạy Đăng Quế từ rày nếu có biết điều gì, hay là nghĩ ra điều gì, mà quan hệ về việc lợi hại lớn trong nước, cho phép phát trạm tâu lên. Rồi sau Đăng Quế tâu 5 điều: (1. Dùng người giỏi giúp việc chánh trị; 2. Lo Ngài chưa có Hoàng tử; 3. Các Tri huyện nhiều người chưa thuộc việc; 4. Tiền của nhà nươc chưa đủ dùng; 5. Nên tùy thời định ngạch quân lính lại). Ngài đều xem cả. Khi về Ngài ban cho bài thơ rằng: "Kê đồn hữu thực thượng phi an, thẩn thị hi ngưu sức mĩ quan; hác hiểm giang thâm hoàn hải khoát, xuân thư hạ mậu phục đông hàn; lâm trung dị thể trường sanh được, lâu thượng nan cầu bất lão đơn; vị thức chi cùng sơn thủy tú, Long Thanh Trúc dự khẳng hồi khan. Nghĩa là: gà lợn vì nuôi sợ có ngày, huống gì trâu tế trọng lâu nay; khe, sông đến biển càng lai láng, xuân, hạ rồi đông vẫn đổi thay; hái thuốc trường sanh về núi dễ, tìm phương bất lão ở lâu gay; biết chăng chống gậy vui non nước, còn nhớ Thành Long, dự Trúc nầy?1".

Tháng 4, chuẩn cho Định An Tổng đốc Nguyễn Đình Tân (thân phụ bà Thiện phi) chiêu hàm Binh bộ Thượng thơ vâng lễ Triều sảnh2; vì Đình Tân là người thân trong Nội đình, nên không được dự việc chánh sự.

Cho Thống chế Nguyễn Doãn sung Hải Yên quân thứ Thống quản thủy đạo đại thần.

Tá lý Trần Đình Túc (người Quảng Trị) xin mộ người khẩn ruộng hoang trong hạt Thừa Thiên và Quảng Trị. Ngài cho Đình Túc làm Dinh điền sứ.

Thành tỉnh Thái Nguyên khi trước bị giặc Cổ phỉ Tàu hiệp với quân Mán, Nồng, vây đã 8 tháng, đến đây Nguyễn Tri Phương đã dẹp yên phía Bắc, mới cùng Bang tá Nguyễn Văn Vĩ đem quân tới đánh lấy thành tỉnh lại, bắt sống ngụy Thanh, ngụy Đắc đem về, lại bắt được giặc trốn ở Bắc Ninh là bọn ngụy Vân, đều đem giết cả.

Bọn Nguyễn Văn Vĩ đem lính và voi tới phá sào huyệt giặc tại núi Ma Hiên châu Bạch Thông.
Phía tây bắc giặc đều yên cả, thâu quân về, từ Đề đốc đến lính tráng đều được thưởng 1 tháng lương, rồi lính cho về đội vệ, dân tráng cho về làm ăn.

1 Kinh Dịch ý bài thơ: câu thứ 1 là ám chỉ các quan nhỏ, nói: ga lợn vì ăn của người, còn sợ có ngày không yên được. - Câu thứ 1 chỉ các quan khanh tướng, hi ngưu là con trâu để tế Giao; chữ sách Trang Tử nói: huống chi con trâu tế Giao nuôi đến vài năm, mặc gấm vóc, sự thể trang trọng thời lo sợ biết chừng nào. -Câu thứ 3 chỉ thời cuộc, nói: càng mở rộng chừng nào, thời càng hiểm nghèo chừng nấy, chẳng khách chi khe hiểm, sông sâu; đến biển lại càng rộng lắm. - Câu thứ 4 là ám chỉ vận nước có lúc thạnh thời có lúc suy, người sanh có hồi tráng thời có hồi lão, chẳng khác chi mùa xuân khí trời thư hòa, mùa hạ vật thạnh tốt, qua mùa đông thời lại lạnh rồi. - Câu thứ 5 nói: ông về chốn lâm hạ, thong thả dưỡng được tuổi trời, tức là hái thuốc trườg sanh dễ. - Câu thứ 6 nói: Ngài lo việc quân quốc khó nhọc, thêm mau già, tức là cầu thuốc bất lão khó. - Câu kết là nhơn khi ấy Nam, Bắc đương có việc, Long Thành là thành Thăng Long ở Hà Nội ngoài Bắc Kỳ. Trúc dự là hòn cù lao ở Nam Kỳ, nói: chẳng biết ông từ rày về sau ở nhà chống gậy dạo chơi non nước, có còn ngó lại chốn Long Thành, Trúc dự hay không?.


2 Triều sảnh là triều kiến vua, hoặc thỉnh mạng việc gì.

Tháng 5, Ngài nghĩ tướng giặc trốn ở hòn Cù Lao đã lâu, sai Nguyễn Tri Phương đổi làm Tổng thống Hải Yên quân vụ, nhưng cho đem lính Bắc và thuộc viên hiện phái đi qua tỉnh Đông, đổi Trương Quốc Dụng làm Hiệp thống. Ngài dạy phải giúp nhau cho mau rồi việc đánh giặc.

Hải Yên thủy đạo thống chế Lê Quang Tiến đuổi giặc tại phủ Hà Nam thuộc tỉnh Quảng Yên.

Sai Hiệp tá đại học sĩ Phan Thanh Giản, Tả tham tri bộ Lại Phạm Phú Thứ, Aùn sát Quảng Nam Ngụy Khắc Đản qua Sứ Tây, truyền đem đồ thượng phương làm đồ tặng hảo. Trần Đình Túc tâu rằng: "phen nầy, cốt việc gì xin trả lại 3 tỉnh và triển bạc bồi, vậy xin phải chi thêm vàng bạc trong kho, giao cho Sứ trữ riêng, để tùy cơ thương thuyết, cốt làm sao cho được việc". Ngài nghe theo. Ba quan sứ vâng mạng đến Gia Định, cùng Sứ nước Pháp và nước Y Pha Nho đều xuống tàu đi.

Tháng 7, Đề đốc Sơn Tây, Tân Phước Bá, Phạm Hữu Xuân mất, được tặng Thống chế. (Hữu Xuân có tài làm Tướng).

Tháng 8, mới lập trường thi Văn và thi Võ ở tỉnh An Giang. Tháng 9, tàu Đại Pháp vào cửa Bình Thuận, đo nước cạn sâu.
Giặc biển Hải Yên từ khi bị thua tại Hà Nam, đem hơn 500 chiếc thuyền chia ở hòn Cát Bà và Đồ Sơn, 2 lần gặp gió bão, thuyền giặc bị chìm hư nhiều lắm, rồi tên Độ chết. Đề đốc Lê Quang Tiến, Tuần phủ Bùi Huy Phiên nghĩ rằng: bây giờ thẳng tới sào huyệt giặc, thời có thể mau dẹp yên; 2 người mới chia binh mạo hiểm mà tới, không dè binh Hậu đạo gặp giặc đã bỏ chạy trước, Trung đạo và Tiền đạo bị giặc giáp đánh, Quang Tiến và Huy Phiên nhảy xuống biển tự tử. Ngài nghe tin, tiếc lắm, cấp tuất rất hậu, lại trọng trị những người chạy trước (rồi đảng giặc cũng bị quan binh bắt nhiều).

Tháng 12, mới đặt chức Tịnh man tiễu phủ sứ ở tỉnh Quảng Nghĩa, dùng người bổn hạt là Nguyễn Tấn làm chức ấy, Nguyễn Tấn trước làm Aùn sát Thái Nguyên, nghe tin trong tỉnh nhà giặc Mọi dữ tợn, (đốt cướp Hán dân, đón giết lính tựu ban) xin về giúp việc, ước 1, 2 năm có thể dẹp yên. Ngài cho thăng Thị độc sung lãnh Tiễu phủ. Nguyễn Tấn tâu bày mưu mẹo nói về việc binh dân đồn bảo, lại xin cho Kiều Lâm (Tấn sĩ Quảng Nghĩa) thự hàm Thị giảng sung Bang tá quân thứ, ngài cho cả).

Quan Soái Đại Pháp là Phô Na về Tây, Gia Lăng Gi Y đến thay.

Năm Giáp Tý thứ XVII (1864), tháng 2, khiến quan Địa phương Bắc Kỳ chiêu dụ dân điêu háo.

Sứ bộ qua Tây về đến Kinh. Ngài cho Phan Thanh Giản lãnh Thượng thơ bộ Lai, Phạm Phú Thứ làm Tả tham tri, Ngụy Khắc Đản làm Tá lý bộ Binh.

Tháng 3, Dinh điền sứ Trần Đình Túc xin mộ dân lập ấp để khai khẩn các chỗ ruộng hoang làng Lương Điền huyện Phú Lục và xin cho mỗi tên đinh mượn 20 quan tiền. Ngài cho.

Nguyên Cửu Phẩm Lê Văn Giai, Thông phán bị cách Võ Đăng Thiệu, Tú tài Bùi Duy Liễn xin mở mỏ sắt, khẩn ruộng hoang tại các chỗ gần núi sông tỉnh Quảng Bình. Ngài truyền cấp lương cho làm, nhưng giao nha Dinh Điền chuyên đốc.

Định lại lệ "thưởng người khẩn ruộng" (chiếu theo số đinh điền mộ khẩn đó; hễ số ít thời người mộ khẩn được tha binh thuế; số nhiều thời được thưởng chức hàm).
Tháng 4, định lại lệ "khẩn ruộng trước tịch". (Người nào xuất của nhà ra làm, cho nhận làm ruộng tư; còn người nào quan cho mượn tiền mà làm, thời trong số ruộng đã khẩn đó, lấy 2 phần làm ruộng công, 1 phần làm ruộng tư).

Định lại lệ "bổ ấm". (Quan viên tử chiếu phẩm hàm cha mà tập ấm; hễ người nào đáng bổ ấm, mà đã thi đậu, hoặc đã bổ quan rồi, thời người em thứ được phép tập ấm; còn ông quan nào chỉ có 1 người con, mà chẳng may chết đi, chưa được thừa ấm cha, thời cho người cháu tập ấm, nhưng thua 1 trật).

Hiểu sức quan lại phải chia nhau đi phát chẩn cho dân, vì bấy giờ tại Kinh và các tỉnh đều mất mùa.

Ngài truyền sắc từ rày những tâu sớ các Bộ Viện và các tỉnh phải nói cho hiệp thể và cho gọn (nếu muốn dẫn lệ thời phải lựa lệ nào cho thiệt đáng, không vậy thời thôi).

Tháng 5, Toàn quyền Đại Pháp Hà Ba Lý (Aubaret) đến Kinh định hòa ước. Ngài khiến Phan Thanh Giản sung Toàn quyền chánh sứ, Trần Tiễn Thành, Phan Huy Vịnh sung Phó sứ hội thương. Khi trước Thanh Giản đi Sứ Tây về (nói việc chuộc lại 3 tỉnh), đem dâng 2 tờ quốc thơ của nước Pháp và nước Y Pha Nho, ước thêm về việc sanh lý. (Mỗi tờ 31 khoản). Nên bây giờ Ngài sai 3 người ấy hội thương lại với Hà Ba Lý. Rồi 3 người tâu rằng: "tiết thứ cùng Hà Ba Lý bàn nói, việc cắt đất, bồi bạc, đã có châm chước, đến như khoản đặt Lãnh sự ở Huế, thời họ cố chấp không chịu đổi, còn trong các khoản khác, họ cũng sửa đổi 1,2 điều mà thôi".

Tháng 6, Pháp sứ đến Kinh, thường thường cố xin y theo bản nghị đó. Các thuộc viên Bộ, Viện, Quán, Các đều tâu: "hòa ước sau rất quan ngại, không bằng cứ giữ hòa ước cũ, (12 khoản) còn việc chuộc lại 3 tỉnh, thời chờ sau sẽ tính". Ngài dạy quan bộ Công là bọn Nguyễn Văn Phong rằng: "thuộc viên đều có mật tấu, ta há lại chẳng biết giữ việc thường là phải; nhưng sự thế cũng nên theo thời châm chước mà làm". (Rồi đến năm thứ 18, cũng vẫn theo hòa ước cũ).

Trả bạc bồi quân phí năm trứơc cho Đại Pháp 400.000 đồng.

Bọn Phan Thanh Giản cùng Hà Bá Lý đem sắc văn giao cùng nhau. Quý sứ xin vào chầu, từ giã về nước, Ngài khiến đem phẩm hạng gởi tặng vua Đại Pháp. Ngài ngự đền Cần Chánh, Hà Bá Lý và thuộc quan tới trước sân làm lễ 3 khấu, Ngài truyền mời lên đền, cho ngồi, ban trà. Ngài dạy rằng: "gởi lời thăm quốc chúa an hảo, từ nay về sau, 2 nước ta giữ điều hòa hảo". Quý sứ thưa rằng: "xin vâng lời". Rồi khấu từ lui ra.
Tiễu phủ sứ Nguyễn Tấn đem lính hơn 2.000 tới đánh giặc Mọi, hàng Man là tên Cấp xin đem hơn 200 quân Mọi theo đánh giặc. Nguyễn Tấn xin trích tiền gạo của dân lạc quyên cấp cho chúng nó, (lúc ấy gạo mắt, nên cho quyên).

Đạo quân thứ Hải Yên đánh giặc tại La Khê và Hà Bắc. Vì quân giặc đông mà quân mình ít, không thể địch lại, bọn Hiệp thống Trương Quốc Dụng (sau truy tặng Đông các), tán lý Văn Đức Khuê (Tấn sĩ Nghệ An) Tán tương Trần Huy Sách đều bị hại; biền binh bị thương chết và thất lạc nhiều lắm; Chưởng vệ Hổ Thiện bị giặc bắt không chịu khuất mà chết. Việc ấy tâu lên, Ngài cho táng tế và truy tặng rất hậu.

Tháng 7, sai Thị lang bộ Hộ Trịnh Lý Hanh qua quân thứ Hải Yên, hội đồng với quan quân thứ thuê tàu khách đánh giặc. Ngài thấy các nha việc dồn chứa nhiều, truyền dụ các quan trong ngoài rằng: "đời xưa có nói: cha tuy lành, chẳng thương chi con vô ích; vua tuy nhơn, chẳng nuôi chi tôi vô dụng; cho nên vua không đặt quan ở nể, mà quan không chịu chức ăn không; các ngươi phải sâu nghĩ lời ấy, chớ nên theo đòi lui tới; nếu xét mình không kham, chẳng bổ ích gì, thời phải nhường người hiền, cử người tài, mong giúp việc nước, trừ điều loạn, làm điều trị, ấy cũng là tôi trung. Vả lại, chỗ quan trường không phải là nơi nạp của lót và nuôi người dở, các người phải nghĩ, có lỗi thời đổi đi, không thời gắng thêm".

Truy tặng Tri huyện Lục Ngạn là Đinh Hữu Hoạch hàm Hàn Lâm Viện thị giảng. Vì Hữu Hoạch bị giặc bắt, mắng giặc hết sức, giặc giận giết ngay.

Tháng 8, định lệ thưởng phạt người học tập chữ và tiếng Đại Pháp. (Người thông hiểu được thưởng tiền, người trễ nhác bị đánh đòn).

Tháng 9, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An bị bão lụt, dân bị thương và chết nhiều lắm, Ngài cho chẩn cấp.

Ngài nghĩ của dùng không đủ, truyền dụ các quan trong ngoài hết lòng việc quan, chỉnh đốn các việc làm, có điều lời phải làm hẳn, có điều tệ bỏ ngay.

Chuẩn định lệ "quyên tiền được thưởng hàm và được chuộc tội", kể từ Hoàng thân, Công chúa, quan, lại, đến tổng, lý, sĩ, dân.

Ngài thấy mấy năm bị mất mùa luôn, đã cần phải chẩn cấp cho dân, lại tốn về việc giao thiệp cũng nhiều, khiến Đình thần trù tính, làm cách nào cho đủ dùng. Các quan tâu: "việc cho quyên, tuy không phải là vương chánh, nhưng còn hơn kiếm điều để bác tước1 người dưới. Ngài mới chuẩn nghĩ định điều khoản cho thi hành, đợi khi nào việc yên và năm được mùa thời thôi. (Chiếu theo số quyên tiền lúa nhiều ít, hoặc gia trật, hoặc gia ấm, hoặc tha binh diêu, hoặc chuẩn khai phục nguyên hàm, đều có phân biệt).

Chuẩn lựa Vạn Niên cát địa2 tại núi Dương Xuân thượng huyện Hương Thủy, sắc cho quan Đốc công khởi làm, đặt tên là Khiêm cung.

Chuẩn cho Trần Hoán thiệt thọ Thị lang lãnh Tuần phủ Hà Tiên, kiêm sung chức Dinh điền An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long.
Tháng 10, các quan tỉnh Thái và tỉnh Lạng tâu: "trong hạt đã gần yên lặng, dân xiêu lưu đã dần dần trở về". Ngài truyền chỗ nào còn đáng chẩn cấp cứ phải làm, chớ nên tiếc của.

Định lại lễ "giá thú ngoài dân gian" (từ lễ hỏi đến lễ cưới, hạn cho 6 tháng, các lễ đều nên giản ước, không được xa xỉ quá; còn tiền cheo thời bậc giàu nạp 1 quan 2 tiền, bậc thứ thời 6 tiền, bậc nghèo thời 3 tiền, người làng khác phải nạp xấp hai).

Nghiêm cấm bán riêng ruộng công. (Ruộng công không được bán riêng; như có việc công khẩn trọng, thời Lý trưởng được phép hội đồng dân mà cho thuê mướn, nhưng không được quá hạn 3 năm).

Tháng 11, khiến vệ Thủy sư và sở Võ khố lựa 8 người hào cẩn thận siêng khéo và mạnh mẽ, để phái theo tàu máy học tập chế tạo; cho Viện ngoại Hàng Văn Xưởng, Chánh đội Lê Văn Mân sung chức Chánh, Phó, Quản lý.
Tháng trước Ngài nghĩ giặc biển đã gần đến lúc túng đói, thế tất chia nhau đi ăn cướp, Ngài đã sắc các tỉnh duyên hải phòng giữ. Đến bây giờ, thuyền giặc phần nhiêu chạy qua phía nam.

Tháng 12, quan tỉnh Nam Định đem việc lập xã thương (thông tính được hơn 20.000 quan tiền) và việc đào dòng nước các khe hói, đắp bờ đập, vẽ đồ tâu lên. Ngài khen, khiến quan Bộ nghĩ thưởng để khuyên trước, chờ đến khi có thành hiệu, lại thưởng thêm nữa.
Công tử Hường Tập mưu làm việc trái phép, bị xử trảm quyết; các người đồng mưu cũng bị tội, (mưu giết Phan Thanh Giản và Trần Tiễn Thành, nhưng việc chưa làm, đã bị quan Phủ doãn trích giác).

Năm Ất Sửu thứ XVIII (1865), tháng giêng, tiết nguyên đán, Ngài ngự triều, ban các quan 1 bài thơ, (chép ở Thi sơ tập) chú ý khuyên các quan về việc "thọ quốc thọ dân3. Ngài lại nhơn mấy năm bị mất mùa luôn, ban ân dụ cho trong ngoài cả thảy 14 khoản, ngụ ý thể nguyên dục vật4.

Ban thể thứ xe trâu kéo nước vào ruộng. (Khiến sở Đốc công phỏng theo cách Tây, chế tạo 27 cỗ, chia phát từ Bình, Phú, đến Thanh, Nghệ, sức các nhà làm ruộng y thức mà làm, để cứu ruộng bị hạn).

Quan Pháp soái là Gia Lăng Hy Y khiến Sơ Ba Ly chạy tàu đến cửa Thuận, đưa thơ xin làm lễ triều yết và tâu việc định hòa ước. Ngài ban rằng: "quan Pháp soái phái người đến, chắc là cố giữ lời trước mà thôi". Bèn khiến bọn Phan Thanh Giản; phủ ủy. Sơ Ba Ly lại nói: "chuyến nầy cứ giữ lời hòa ước năm Nhâm Tuất, (năm Tự Đức thứ 15) xin Ngài dụ cho các tỉnh cấm mộ dân và giao bạc bồi; nhưng giấy tờ làm ngày nào rồi, xin trả lời mau để về nước". Thanh Giản tâu lên, Ngài chuẩn đem 12 khoản ước cũ, hiểu thị sĩ dân 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, khiến đều an nghiệp; lại sức trong hạt có người nào đánh tiếng tùng mộ thời cấm không được vào trong cõi; hễ thấy người nào thời bắt giải liền, ai mà dung ẩn cũng trị tội.

1 Bác tước nghĩa là lấy của dân, chẳng khác lột da xẻ thịt.

2 Vạn niên cát địa là sở lăng của vua.
3 Thọ quốc thọ dân làm cho nước được lâu dài, làm cho dân khỏi tật bệnh đói rách, để dài hưởng tuổi đời.
4 Thể nguyên dục vật là mùa xuân đầu năm, khí trời ôn hòa, sanh nuôi vật, Vua thể theo trời mà gia ơn cho thiên hạ.
Mới đánh thuế Nha phiến, (năm ấy khởi trưng thuế đồng niên cộng tiền 302.200 quan. Khi trước có lệ cấm Nha phiến, nay tha cấm mà đánh thuế rất nặng, để cho người bán ít mà người hút cũng ít, ấy là không cấm mà cấm).

Tháng 2, thưởng quan Thông phán hưu trí thọ đến 100 tuổi, người tỉnh Quảng Nam là Nguyễn Văn Ninh.

Kiêm Dinh điền sứ Trần Hoán xin đặt viên dịch nha Dinh điên và lựa tùy binh. Bộ Lại tâu: "Vĩnh Long, An Giang nhiều chỗ đất hoang, mấy năm nay gạo mắt, người ta ai cũng ưng làm ruộng, nhơn chỗ chúng nó ưng mà chỉ vẽ lần, thiết tưởng cũng là một cơ hội nhóm đông dân và mở ruộng đất đó. Số người làm việc và tiền bút chỉ đồng niên màTrần Hoán xin, thời nên giao cho tỉnh Vĩnh Long chi cấp". Ngài nghe theo.

Buổi áy trời hạn lâu, (từ đông qua xuân) cầu mưa nhiều lần mà chưa ứng, dân có sắc đói, Ngài khiến chẩn cấp. Ngài lại xuống dụ trách mình và lời nói trực, liền đặng mưa to. (Sau vì mưa lạnh, ruộng lại bị tổn).

Định lại lệ "Tấn sĩ, Phó bảng bổ quan". (Tôn, Âm, Giám sanh, Cử nhơn, và Huấn đạo, Giáo thọ mà thi đậu Tấn sĩ Phó bảng, khi bổ quan đều có khác nhau).

Cần chánh điện đại học sĩ, Tuy Thạnh quận công trí sĩ Trương Đăng Quế mất. Ngài bãi triều 3 ngày, tặng hàm Thái sư, cấp thêm tiền lụa, sai đem rượu Thượng phương và bài thơ (chép ở Thi sơ tập) tới nhà ban tế, dựng bia ở phần mộ khắc 11 chữ: "Lưỡng triều cố mạng lương thần Trương Văn Lương chi mộ". (Thụy hiệu ông là Văn Lương). Và truyền chỉ chờ kết tang sẽ vâng lời Tiên đế cho tùng tự Thế Miếu.

Tháng 3, định lại lệ "thi Hội trúng cách" (4 trường thông tính đặng 8 phân trở lên, đều cho Trúng cách; đặng 7 phân đến 4 phân và 3 trường đặng 10 phân trở lên, đều cho Phó bảng; khoa nào số Trúng cách ít, sẽ lấy thêm Phó bảng cho vào Đình thí, hễ quyển Đình được 3 phân trở lên, thời cho đậu Tấn sĩ, còn 1,2 phân thời để xuống Phó bảng, bất cập phân thời truất về nguyên hạng).

Ngài bảo quan bộ Lại rằng: "quan không nên năng đổi, phải để ở chức cho lâu, mới thấy hay dở, nếu thường cử người trong ý riêng mình, thời làm không được việc gì; chi cho khỏi bệnh dân". Rồi chuẩn lời Bộ nghị, cứ y phép cũ 3 năm xét công 1 lần, nếu Bộ xét có người nào nên để lại chức cũ, thời phải tâu lên.

Khiến Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển kiêm việc giao thiệp An - Hà.
Mọi Đá Vách lại xuống cướp phá, Nguyễn Tấn đem binh đánh tại sách Lang Lui, đuổi được. Rồi Nguyễn Tấn lại tới đánh các mọi Nước Sông, Nước Trang, Nước Nể; chúng nó trốn xa, chạy lên núi Cao Muôn.

Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Quảng Yên, Sơn Tây đều đói. Ngài khiến dùng nhiều cách để chẩn cấp.

Tháng 4, tỉnh Hải Yên bị hạn. Nguyễn Tri Phương cầu mưa tại núi Đàng Sơn, liền được mưa mấy ngày luôn. Tri Phương dâng sớ tâu rằng: "Ngài có lòng thành cảm động, vậy nên Trời và Thần phò giúp". Lại đem bài văn cầu võ dâng lên. Ngài phê rằng: "đọc bài chúc văn của khanh, thấy khanh lòng thành chan chứa, đến nỗi ta phải chảy nước mắt, nức nỡ, cảm thương trong dạ. Ta lúc bình nhựt đọc sách, mỗi gặp việc tôi trung con hiếu, thường thường cảm khóc, bởi vì lòng ấy lẽ ấy, ai cũng như ai; vả lại khanh vốn xưng trung liệt, không từ khó nhọc; nếu ta đặng nhiều người như khanah, bổ ra các chức, nào còn lo chi việc nước chẳng nên, dân sanh chẳng thỏa". Liền ban cho 1 bài thơ (chép ở Thi sơ tập), gia thưởng 1 cấp "Trác dị"1 để tỏ người giỏi.

1 Trác là giỏi hơn cả; dị là khác bật tầm thường.


Tàu giặc biển hơn 300 chiếc từ các cù lao Phò Long, Cát Bà, chia 3 đạo đến nỗi nhiễu hại. Nguyễn Tri Phương khiến Nguyễn Văn Vĩ đốc thuyền nước Tàu đến đánh, bắt sống và chém nhiều lắm, giặc sợ hãi chạy tan. Ngài nghe tin thắng trận, ban dụ khen.
Hậu quân đô thống lãnh Tổng đốc Hà Ninh Tôn Thất Hàn mất, được tặng Chưởng phủ sự.
Vua thứ 2 nước Xiêm là Ô Thiệt đưa thơ chiêu dụ vua Cao Man là Ong Lân; vua Cao Man nghi sợ, cầu cứu với quan Soái Đại Pháp; Pháp Soái đem tàu binh đến cửa Cần Bột bảo hộ.

Giặc biển tràn vào sông Võ Định xứ Lang Thâm thuộc tỉnh Hải Dương, dùng mưu hỏa công đánh đạo quân thủy ta ở nơi sông Cấm, quan binh chạy tan cả, Thống chế Nguyễn Doãn bị bắt (rồi bị hại được tặng Đô thống), Nguyễn Tri Phương đốc lính bộ đánh đuổi giặc lui.
Thị lang bộ Công Lê Đình Đức tâu rằng: "hạt Ba Xuyên tỉnh An Giang, lợi muốn gạo hơn các tỉnh, nước Cao Man nhận làm đất cũ, xui dân mọi nhơn dịp sanh việc, nay vua Cao Man là Ong Lân cậy nước Đại Pháp cứu viện. Chúng tôi nghe phong thanh rằng quan Pháp soái sắp sanh việc ở An Giang, thâu lại đất cũ giao cho Cao Man, việc ấy hư thiệt chưa biết được, mà sự thể cũng nên lo lắm; tỉnh Hà Tiên gần biển, một xứ xa cách, mà liên tiếp với hạt Ba Xuyên, nếu có việc chi phải vận lương đòi lính, tưởng cũng mau hơn. Xin dời thành tỉnh Hà Tiên qua xứ Sóc Trăng hạt Ba Xuyên, Vĩnh Định, Phong Thạnh, Phong Phú, thuộc An Giang, với 2 huyện Long Xuyên, Kiên Giang, thời xin hiệp về phủ An Biên (nguyên thuộc Hà Tiên), đặt quan Lãnh binh, quan Tri phủ và 200 lính giữ đó, hiệp với hòn Phú Quốc giao về tỉnh An Giang quản hạt. Nếu Đại Pháp xin đất ấy cho Cao Man, thời ta lấy điều đặt tỉnh thành mà trả lời". Việc ấy giao xuống Đình nghị. Đình thần tâu : "chuyện dời đổi người ta dễ sanh nghi, xin giao qua Tỉnh xét lại cho kỹ, rồi sẽ nhơn chỗ hào lũy cũ xứ Ba Xuyên, chiếu theo quy thức thành tỉnh phái lính trù làm". Ngài nghe theo.

Tháng 5, giặc biển phạm các đồn Quỳnh Lâu, An Trì thuộc tỉnh Quảng Yên, Tán lý Đặng Trần Chuyên đánh đuổi được luôn. Đốc binh là Ông Ích Khiêm lại đánh đuổi được giặc tại khe Vị Dương. Bọn Đề đốc Mai Thiện chia quân đón các xứ Hạ Đoạn, Lang Thâm, lớn nhỏ đánh hơn 10 trận đều được cả. Việc ấy tâu lên, Ngài khen.
Chuẩn định lệ "thi Hội trúng cách và thứ trúng cách". (Quyển nào 4 trường cọng được 8 phân thời đem vào hạng Trúng cách, 7 phân đến 4 phân và trường được 10 phân đều đem vào hạng Thứ trúng cách, cũng đều dán tên chung một bảng nội, nhưng có thứ tự trước sau; đều cho vào Đình thí, chớ không được xưng trước rằng Phó bảng, chờ Đình thí rồi mới định Chánh, Phó).
Tháng 5 nhuần, tấn phong Hoàng đệ Kiến quận công làm Kiên quốc công; Hường Diêu làm Phú Lương quận công; Hường Dật làm Văn Lãng quận công. Từ năm Tự Đức thứ 1 đến nay, các Hoàng đệ mới phong, đều tước Quận công; nhưng nay 3 ông Hoàng đệ ứng chế1, Ngài xét ông Kiên quốc công học hạnh hơn hết, nên cho đặt cách ấy. Ngài lại ban lựa con trưởng ông Kiên quốc công (là đức Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế) nuôi tại trong cung. Khi ấy đức Cảnh Tôn mới 2 tuổi, bà Thiện phi họ Nguyễn Đình phụng mạng nuôi làm con.
Ban sách Nông tang y thực và Châu huyện đề cương, sách Bổ hoàng khảo (dạy phép bắt sâu keo) cho các hạt Nam, Bắc. Ngài dụ khiến các phủ huyện phàm những chuyện Tuần lương2 mà bình nhật đã đọc, phải gắng làm cho được như lời trong truyện dạy.

Mới định niên lệ phong tặng cha mẹ các quan viên. Lệ cũ định rằng: ân điền phong tặng phải chờ khi Đại khánh tiết mới cho. Mùa đông năm ngoái, Ngài nghĩ rằng nếu chờ năm Đại Khánh, thời có người gặp, có người không gặp, ân điển chưa đều; nên Ngài mới chuẩn; phàm đến năm sửu vị, thìn, tuất, Bộ phải hội kê sách văn, võ ân quan trở lên, người nào được phong tặng cha mẹ; tựu trung có người hoặc đã về, hoặc đã chết, cũng cho cha mẹ đặng dự, nhưng lấy hiện hàm năm ấy làm chừng; còn người nào nhơn có tội lỗi bị giáng, đến hàm thuộc viên, thời sắc phong tặng truy đoạt lại3, chờ khai phục

1 Ứng chế là được xướng họa thơ với Hoàng thượng.

2 Tuần lương là chỉ về quan Phủ, Huyện đời trước, trị dân có tiếng tốt.

3 Truy đoạt đó nghĩa là cha mẹ đã được phong tặng rồi, nhơn con bị giáng phải thâu sắc lại. đến hàm được phong tặng, sẽ chiếu lệ cho lại; kể từ năm nay làm đầu, sau có ai đặng phong tặng thêm nữa, thời phải chờ năm khánh tiết sẽ cho. Việc ấy biên để làm lệ.

Mới mở khoa thi Tấn sĩ võ, cho bọn Võ Văn Đức cả thảy 2 người đậu Võ tấn sĩ, Đồng võ tấn sĩ xuất thân, khoa Võ Tấn sĩ mở đầu từ đây.

Tế tửu trường Quốc Tử Giám là Nguyễn Dục cáo bệnh xin về. Ngài dụ rằng: "nghe nhà ngươi có học hạnh, làm thầy được, người phải gắng siêng tác thành nhơn tài, cho Nhà nước dung, chức trách Tế tửu chẳng phải nhỏ đâu, chớ cho là một chức quan lãnh đạm".

Tháng 6, Ngài nghĩ giặc biển ở Hải Yên (là bọn ngụy Phong ngụy Ước) vẫy vùng ba bốn năn nay, gần đây nghe đã cùng ngặt, cố giữ hạt Hải Ninh; phía ngoài có thuyền nước Tàu và thuyền dân đón đánh, phía trong có quan binh Đoàn Dõng, thổ Dõng đi đàng bộ kéo tới. Bây giờ phải quyết đánh, khiến chúng nó trước sau bị địch, thời một trận chắc là bắt được. Nhơn dụ Nguyễn Tri Phương, Phạm Chi Hương phải nghiêm tướng lệnh, tính chước hay, đốc quân thủy đạo là bọn Nguyễn Văn Vĩ, quân lục đạo là bọn Mai Thiện để tấn tiện cho mau.
Sai Tổng đốc Trương Văn Uyển vào Gia Định hội thương và kiểm kho 3 tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long. Kiểm được hơn 10.000 đồng bạc, hơn 100.000 quan tiền, 500.000 hộc lúa, định giá khấu bạc bồi khoản. Lại khiến quan Thương bạc viết thơ thăm Quý soái.

Định lại lệ "quân cấp công điền" (lâu nay đều định hạn 3 năm cấp lại một lần, đến đây chuẩn định 3 năm hoặc 6 năm, tuỳ theo dân nguyện).

Mới đặt nha Dinh Điền trong các tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên; cho Ngự sử Nguyễn Văn Phương làm Khâm sai dinh điền, đốc làm việc ấy.

Tháng 7, khiến bộ Hộ và Nội vụ kiểm đồ khí mãnh và các hạng bạc khối bạc đính (cọng 72.000 lượng, tính thành 100.000 đồng) rồi tư cho quan Soái đến Kinh tính khấu được phần nữa bạc hồi 1 kỳ. Nhưng sai quan Thương bạc viết thơ phủ ủy.
Lại sai Trương Văn Uyển vào Gia Định kiểm kho 3 tỉnh, kiểm được vàng hơn 920 lượng, bạc lượng hơn 2.220 lượng, bạc đồng 10.500 đồng, chiếu theo tờ thương ước định giá khấu bạc bồi còn thiếu. Ngài lại truyền viết thơ phủ ủy.
Tàu giặc biển 100 chiếc đậu tại sông Thác Hàn ngoài thành Hải Ninh. Tán lý quân thứ Đặng Trần Chuyên (nguyên Tri phủ phái đi) khiến Đốc binh Ông Ích Khiêm, Phó vệ úy Phan Đình Thảo đem binh nhơn ban đêm phục lại La Phù, ước với quan Tàu ở Khâm Châu là Lý Yên Văn giáp đánh. Sáng ngày tới lấy lại được thành Hải Ninh, Ích Khiêm thừa thắng đuổi giặc đến núi Thác Hàn, giặc thua, lui thuyền đậu vũng Ngọc Sơn. (Ước chừng 70, 80 chiếc). Chạy cờ đỏ về báo tiệp, Ngài vui lắm, thưởng Trần Chuyên hàm Tham Tri, Ích Khiêm hàm Thị độc sung Tán tương, Đình Thảo hàm Vệ úy, đều gia thưởng kim khánh kỷ công.
Tháng 8, định thuế đồng niên người Minh Hương; người nào vật lực thời nạp 2 lượng bạc, người vô lực nạp 1 lượng; nhưng phải nạp thiệt sắc như lệ thuế người Tàu.
Tiễu phủ sứ Nguyễn Tấn lại chia đạo đánh phá giặc mọi Lang Y, từ khi ấy dân hơi được yên.

Định lại lệ "các quan được phong tước thời con cháu được tập tước"; (người phong tước Công, thời con cháu được tập tước 5 đời; tước Hầu thời 4 đời, tước Bá thời 3 đời, tước Tử thời 2 đời, tước Nam thời 1 đời, nhưng đều thua lần).
Đạo quân thứ Hải Yên đuổi giặc biển tại sông Gia Luận xứ Hà Lai. (Bọn ngụy Phụng, ngụy Ước trốn ở biển Thanh, Nghệ, bọn nguỵ Sắt, ngụy Vinh lén ẩn ở các cù lao). Nguyễn Tri Phương phái Tri huyện Nguyễn Hữu Thuận đem binh thuyền đi đàng sông thám thính, thình lình gặp thuyền Đô thống giặc là Phan Văn Khương, quân mình đánh bắt được, lại bắt được bọn ngụy Oánh và đảng lõa, thuyền, pháp. Tri Phương giết ngụy Oánh, còn ngụy Khương nhốt cũi giải về Kinh. Ngài dạy thưởng trước Hữu Thuận 1 cái kim khánh, còn bao nhiêu sẽ nghị thưởng; lại sắc Tri Phương dẹp yên đảng giặc còn sót và nghĩ mưu giữ yên hồi sau.

Mới mua chiếc tàu đồng lớn hiệu Mẫn Thỏa giá 135.000 đồng bạc.

Chuẩn cho Võ Ban thuộc viên tùng tam phẩm trở lên đặng dự phong tặng cha mẹ.
Giặc Cổ phỉ Tàu khuấy rối các phủ huyện tỉnh Cao Bằng. Lãnh binh Bùi phó đem binh tấn tiễu, giặc liền kéo binh đánh hãm thành tỉnh. Bố chánh Nguyễn Mẫn, Aùn sát Dương Gia Huấn lui đóng ở làng Cung Cao, nhóm lại những quân còn sót; thự Tuần phủ Lạng Bình Trịnh Lý Hanh nghe báo, liền phái 400 lính đóng triệt chỗ Bông Phong và đem việc ấy tâu lên. Ngài nghiêm dụ Kinh lược Võ Trọng Bình và Tuần phủ Trịnh Lý Hanh phái gấp đại binh qua Cao Bằng hiệp cùng đạo binh Bùi Phó mà đánh giặc, hoặc qua Bông Phong điều độ; còn Nguyễn Mẫn, Dương Gia Huân hãy cho tùng quân hiệu lực, nếu 2 người ấy xét sức chẳng kham, thời phải cử người giỏi khác, chớ để sanh rối chốn biên cảnh.
Tháng 9, mới định lệ "Ấm tôn" (phàm Văn, Võ người nào tiết liệt huân lao đặng tùng tự ký công, và người nào tháo hạnh đoan trang lương đặng dự thờ miếu Hiền Lương, thời cháu được tập ấm: chánh nhứt đến chánh nhì, cháu được 2 người, tùng nhì đến đến chánh tam, cháu được 1 người; còn tằng tôn thời chánh nhứt đến tùng nhì, được khai ấm 1 người. Lệ ấm tôn từ đây là đầu).

Võ Trọng Bình đem đại binh qua tỉnh Lạng, xin cho nguyên Aùn sát Ngô Văn Độ sung chức Tán lý, Tri phủ Nguyễn Cao Bính, Trần Văn Mỹ sung Tán tương, Đốc đồng bọn tuỳ phái Võ Huy Thụy, Đốc binh Hoàng Ninh chia coi các đạo quân. Ngài cho, nhơn dụ rằng: "nay binh đã nhóm đông, phải hết lòng hiệp sức dẹp yên, cho thư lòng ta lo lắng phía Bắc".

Nước Y Pha Nho phái A Răng Đa đưa thơ xin cho đặt Lãnh sự ở cửa Đà Nẵng. Ngài khiến quan Thương bạc viết thơ khước đi.
Bang thuyền nước Tàu đánh giặc biển ở ngoài Hải Ninh và hòn thảo Dự ở Quảng Bình, bắt hết bọn tướng giặc bỏ cũi giải về Kinh (ngụy Phụng, ngụy Ước và đảng lõa đều bắt được, rồi đem về chánh pháp cả).
Cho lính Kinh và lính Tỉnh ở Thủy quân Hải Yên đều về đội ngũ và thưởng tiền.
Nguyễn Tấn điều trần cách sửa sang 6 cơ lính và việc xử trí trên mọi. Trong tờ điều trần đại lược nói: "trên mọi ruộng đất tốt, vật sản trong rừng núi nhiều; xét chỗ lợi hại, thời nên lập sở buôn trầu, đánh thuế mọi và bãi các nhà lái buôn". Ngài cho làm thử để xem thành hiệu.

Tháng 10, Võ Trọng Bình đến thành tỉnh Lạng Sơn, làm lời hịch báo cho Thân, Biền, Hào mục ở tỉnh Cao Bằng nhóm quân Hương dõng án cứ địa phận. Trọng Bình liền đem đại binh đóng đồn tại Bông Phong, phái Ngô Văn Độ, Nguyễn Cao Bính tới đóng ở trạm Cao Nhã và Cao Phước, hội lính tỉnh Cao Bằng định ngày đánh lấy thành tỉnh.
Khiến quan tỉnh Vĩnh Long sức khách buôn là Nha Vạn Hiệp nạp bạc thuế 300.000 đồng, tư tờ cho quan Soái Đại Pháp nhận khấu số bạc bồi.

Nguyễn Tri Phương phái Phó đề đốc Nguyễn Hữu Thận, Đốc binh Nguyễn Văn Tư đem 500 binh, 1 con voi, qua tỉnh Thái Nguyên bắt giặc. (Khi ấy Nguyễn Văn Vĩ ở Bang Thuyền nước Tàu chưa về).

Mới mở khoa Nhã sĩ, cho Đặng Văn Kiều cả thảy 5 người đậu Nhã sĩ và Đồng nhã sĩ xuất thân. (Khoa nầy là Đặc cách).
Trương Văn Uyển mật đem lời quan Soái Đại Pháp và tình hình 3 tỉnh trong Nam Kỳ vào tâu. Ngài liền sai Phan Thanh Giản cứ nguyên hàm Hiệp tá bộ Hộ, sung Kinh lược đại thần 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Tháng 11, làm nhà nuôi tằm ở chỗ Thái Thường Tự.
Mới đặt quan Điển học 3 đạo Hà Tĩnh, Quảng Trị và Phú Yên. (Trật tùng lục phẩm, được địch thể với quan Đạo như quan Đốc học các tỉnh).
Mới định lệ "Ấm sanh các tỉnh đạo" (con quan văn mà đàng xa nhà nghèo, nhập Giám không được, cho phép do quan Học thần tỉnh, đại hội hạch).

Nguyễn Tri Phương tâu xin khiến Đặng Trần Chuyên qua tỉnh Thái Nguyên cho gấp, thương tá quân vụ, để tỏ ý chăm lo tỉnh Cao Bằng, tuỳ cơ tính việc đánh giữ. Ngài cho.

Tháng 12, các quan quân thứ Hải Yên đánh giặc trở về, Ngài cho Bộ nghị người nào đáng thưởng công, người nào đáng phong tặng cứ theo lệ mà làm.
Trịnh Lý Hanh cùng Lãnh binh Đặng Văn Hợi đem binh đánh giặc tại phố Đồng Bộc, thắng trận, lại tới đánh đồn Khôn Quang, đảng giặc đều lui ra khỏi bờ cõi.
Định lại chương trình "con các quan viên được ấm thọ". (Văn tùng tam, Võ tùng nhị trở lên, đều chiếu nguyên hiệu chức hàm, phân biệt người có công, hoặc người không công, cho 1 người con Aám thọ).

Năm Bính Dần, thứ XIX (1866), tháng giêng, quan quân lấy lại phố Bông Phong (thuộc tỉnh Cao Bằng) chạy cờ đỏ báo tiệp. Ngài mừng, ban rằng: "phố Bông Phong là đàng sau phía sau tỉnh Cao Bằng, nay đã lấy lại, thời tỉnh thành cũng lần lần yên được". Nhơn khiến lấy cờ báo tiệp truyền ra cho thần dân biết; và dụ khen thưởng các quan binh. (Võ Trọng Bình, Phạm Chi Hương và từ Đề đốc đến binh dõng đều được thưởng cả).

Tháng 2, quan tướng nước Xiêm là La Hàm tỉnh Hà Tiên đưa thơ tới trình; Quan cơ mật tâu xin phái người qua lại, để tỏ tình thân thiết, còn thuyền Xiêm như có đến buôn, xin khoan các điều cấm ước, để rõ ý mình không nghi nghờ chi. Ngài nghe theo, khiến lục co tỉnh Hà Tiên tuân làm, để thông hảo với nước lân quốc.
Đại binh ở Cao Bằng tới lấy được 2 đồn Thượng Hà và Thổ Sơn, chỉ còn đồn Kho, đất hiểm thành bền, lấy chưa được; xin thêm binh Thanh, Nghệ 1.500, cho Định Hội quyền làm Đề đốc quản đem lính ấy qua quân thứ sai phái. Ngài cho. Lại khiến quan quân thứ phủ ủy khuyến khích người Thổ, lo giữ gìn lấy, khỏi phiền lính xa kéo tới; công đã gần nên phải gắng cho rồi mới được.
Đặt quyển sách1 cho dân Thổ cơ Tịnh Nam tỉnh Quản Nghĩa. Vì khi trước Nguyễn Tấn nghĩ dân Thổ ở gần lũy, nhàcửa linh tinh, đất đã cách, người lại sưa, gặp hồi giặc giã, tiếp ứng không tiện, xin y theo dân chỗ tỉnh Lạng Sơn đặt quyền sách, sức dân nhóm ở. Đến bây giờ Ngài mới cho làm.
Quan Soái Pháp phái tàu đến cửa Thuận đưa thơ nói rằng: "3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, địa thế xa cách, bọn trộm cướp thường qua lại, hai Nhà nước đều không tiện, xin cho Đại Pháp quản luôn đất ấy đặng trừ hết giặc biển và đình hết khoản bạc bồi". Ngài liền sai bọn Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ qua Sứ quán tặng hảo phủ ủy, nhưng xin giữ ước cũ lâu dài; lại tư cho Kinh lược Phan Thanh Giản đến Gia Định thương thuyết với Pháp Soái. Tàu quan Pháp phải ở vài ngày rồi xin chạy ra Quảng Bình chở Giám mục Ngô Gia Hậu qua Nghệ An, rồi mới về.

Khiến 2 tỉnh Vĩnh Long, An Giang lựa thuộc viên công tượng hoặc học trò, người nào siêng giỏi, có tứ khéo, chừng 20 người, cấp cho lương ăn, áo mặc rất hậu, tới Gia Định học tập các nghề công xảo.
Tướng giặc là Trương Cẩn Bang tới hàng; quan quân lấy lại tỉnh Cao Bằng, chạy cờ đỏ về báo tiệp. Trước khi ấy, giặc chiếm trạm Cao Phước, Cao Nhã, quan quân thứ là bọn Võ Trọng Bình, Phạm Chi Hương mật sai các tướng hiện giữ đồn Lạc Dương là bọn Nguyễn Cao Bính đón chỗ hiểm yếu, trong thời phòng giữ rất nghiêm, ngoài thời giả bộ thong thả; bởi thế bọn giặc đánh cướp lấy không được mấy, người đông lương thiếu, đưa thơ xin hàng, quan quân thứ cho. Bây giờ bọn Trương Cẩn Bang đến cửa quân chịu tội, nạp lại thành tỉnh, đại binh vào thành đóng giữ, quân giặc lui ra, đều cho về Tàu, chỉ cho bọn Cẩn Bang ở lại làm dân, cày ruộng buôn bán để sanh lý; khi nào có việc, sẽ cho hiệu phái. Ngài được tin báo tiệp, liền làm bài thơ "hỉ tiệp" (chép ở Thi sơ tập); lại truyền dụ khen thưởng các quan binh.
Năm ngoái Bang tá huyện Thanh Xuyên2 là Trần Tấn, Phó tổng Phan Điểm nghe Linh mục Châu qua dạy đạo tại các buôn Bàu Thạch, Mai Vĩnh, bên xướng suất dân phu ngăn đón không cho giảng đạo. Việc phát ra, Tấn và Điểm đều phải xử tội.

1 Quyền là rào ngăn từng ô; sách là rào cây xung quanh để giữ cho dân.

2 Thanh Xuyên là huyện Thanh Chương thuộc tỉnh Nghệ An.

Tháng 4, mọi Mèo ở tỉnh Hưng Hóa đem nhau tới hàng (khi ấy mọi Mèo biến động, quan binh chiêu dụ mới phục).

Tháng 5, quan Pháp Soái mở trường Đấu xảo, đưa thơ muốn cho dân ta đến hội.

Tá lý bộ Hộ Đặng Huy Trứ tâu xin đặt nha Bình chuẩn sứ. Trong tờ tâu nói: "việc buôn bán từ nghề mọn, mà ích nước lợi dân, thiệt là việc chánh lớn Triều đình". Ngài nhơn cho Huy Trứ lãnh chức ấy.

Quan quân thứ Võ Trọng Bình, Phạm Chi Hương về Băc Ninh nghĩ tâu 4 việc nên làm, để giữ cho tỉnh Cao Bằng về sau cho được yên lặng: (1. Cho dân mượn tiền để mua đồ làm ruộng; 2. Phái lính Bắc Ninh đóng giữ, đổi lính Nghệ về; 3. Triển nghạch hương binh thiếu và lập đồn bảo canh giữ; 4. Khuyên kẻ thổ hào nạp lính đồn điền). Ngài chuẩn cho làm.
Tháng 6, sai Dinh điền sứ ở Thuận Khánh là Nguyễn Văn Phương hội đồng quan Pháp soái khám địa giới đồn Bảo Chánh ở tỉnh Bình Thuận, vẽ sơ đồ dâng lên Ngài xem. Vì quan Soái nói địa giới không phân minh, xin quan ta hội khám. (Rồi khiến dời các người đầu mục qua khẩn đất Khánh Hòa, Phú Yên cho Đại Pháp khỏi nghi).

Ngài bảo Viện Cơ mật rằng: "Ta xem dịch sách Tây cùng sách chữ Hán hơi khác, ấy là một việc khó lắm, phải làm thế nào cho tiện"? Cơ mật tâu: "sách Thái Tây dịch ra chữ Hán phải trước dịch ra tiếng La Tinh, lại dịch ra tiếng Đại Pháp rồi mới dịch ra tiếng nước ta, sau mới dịch ra chữ Hán mà cách chữ Tây, đặt câu không giống chữ Hán; có chỗ nó trùng nhau mà cũng một ý. Nay người tập thuộc chữ Tây, không phải cố đạo thời cũng học trò đạo; chúng tôi xét chỉ có Nguyễn Hoằng là người đạo hơi biết chữ Hán và lại thông chữ Tây, xin sức đòi đến Kinh dịch sách Tây, kiêm dạy học trò". Ngài cho.

Tháng 7, mới đánh thuế rượu trong 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. (Khi ấy người buôn Tàu xin trưng đồng tiền 2.500 quan. Triều đình cho chước định điều ước, trong 40 phần lấy thuế 1 phần).

Đổi quan Tham tán Lạng Bình là Phạm Chi Hương làm Tổng đốc Ninh Thái, kiêm coi việc biên phòng 2 tỉnh Lạng, Bình.

Năm ấy, các hạt ruộng đất bỏ hoang mấy lâu biên sổ không mà bây giờ khẩn thêm, trưng thuế lại, và ruộng đất ngoại lật báo trưng, cát bồi cải trưng, cả thảy được 12.326 mẫu; còn ruộng đất hiện trưng bị lở, và chỗ đất lập huyện lỵ với đào đàng sông lấn vào ruộng đất, cho khỏi nạp thuế, cọng 759 mẫu.
Tháng 8, nghịch dân là Đoàn Trưng cùng đảng nó phạm chốn cung khuyết, đều bị chánh pháp. Nguyên khi trước Trưng với em là Đoàn Hữu Aùi, Đoàn Tư Trực cùng Trương Trọng Hòa, Phạm Lương kết làm hội Đông Sơn thi tửu, để tìm mưu làm loạn, mượn tiếng phò lập Đinh Đạo1, lại có Hữu quân Tôn Thất Cúc làm nội ứng. Tên Aùi mật giao với thầy tu chùa Long Quang là Nguyễn Văn Quý chiêu dụ đồ đảng tại chùa Pháp Vân. Lúc ấy Tá lý Nguyễn Văn Chất đốc công làm sở Khiêm cung, nghiêm khắc quá, quân lính ta oán, bọn Đoàn Trưng nhơn cớ ấy tính rằng: "rao một tiếng thời có thể nên việc được". Nó mới nhóm chúng tại chùa Pháp Vân, mật ước với Tôn Thất Cúc khắc kỳ khởi sự, trước khiến người qua chỗ công sở chực làm tiếp ứng. Ngày mùng 8 tháng ấy, Cúc vào trực, bọn tên Trưng đêm ấy suất đồ đảng qua công sở, tìm Nguyễn Văn Chất không được, liền trói Đổng lý Nguyễn Văn Xa và giả truyền lời sắc: "bãi việc công tác, rút quân về thành, phò lập Đinh Đạo". Lính theo nó kể đến 1.000 người; Trưng chia từng đạo qua sông, nhơn khi súng nổ mở cửa thành, chúng nó từ cửa Chánh nam vào cửa Ngọ môn, chia qua 2 dãy trại thâu lây đồ khí giới; Tôn Thất Cúc từ cửa Đại cung qua môn đi ra, gặp giặc, rồi trở qua cửa Tả Dịch; tên Trực xuất đảng nó đi theo, vừa có quan Phó vệ úy Nguyễn Thạnh lướt đến cùng Chỉ huy Phạm Viết Trang đóng cửa giặc, giặc chặt cửa, bọn Thạnh đều bị thương, giặc phá cửa kéo quân vào, đếnnhà Duyệt Thị, có Quyền Chưởng Long võ dinh Hồ Oai cản cự, Trực chém oai đứt tai bên hữu, Oai la to, kêu Nội giám; "đóng cửa Tả Sương cho vững". Trực tìm bắt trung quân Đoàn Thọ, có người nói Thọ ở điện Thái Hòa, Trực liền trở lui, hiệp nhau với Trưng ở đạo trung; khi ấy Hồ Oai chạy ra kêu Thị vệ và Cẩn Tín tới cho mau bắt giặc, bọn Trưng đương ở trước sân Thái Hoà sắp hàng, Trưng kêu quân Loan giá, lấy kiệu ra rước Đinh Đạo, kiệu ra được nửa đàng, Hồ Oai nạt lui, lại chỉ lính công sở rằng: "bọn mà.
1 Đinh Đạo là con Đinh Ngốc.

đành theo giặc sao?". Lính nghe tháo lui tan đi hết, chỉ còn đảng nghịch ước chừng 30 người; Oai lướt tới đâm Trực, Chánh đội Cáp Văn Sum đâm tiếp luôn, Trực nhào xuống. Lính bỏ biền chạy tới Trực Trưng đều bị bắt, Ái chạy vào nhà bếp sở Hộ vệ tự đâm cổ, đảng nghịch là tên Võ nhảy xuống ao Thái Dịch. Võ cử Nguyễn Văn Thích chạy theo bắt được. Đạo hậu giặc đến bờ phía nam sông Hương Giang, Nguyễn Văn Quý nghe việc không xong, trốn về; Trương Trọng Hòa còn chưa biết, đem đảng nó thẳng vào trại lính Thần cơ thâu lấy đồ binh trương, Hiệp quản vệ ấy là Võ Giác, đánh trống làm lệnh, bọn Nguyễn Hùng, Lê Bình suất binh ra ngoài cửa Chương Đức hiệp cùng Lê Sĩ bắt đặng nghịch Hòa, lại phái người qua chùa Pháp Vân soát bắt Nguyễn Văn Quý giải về, đảng nó còn bao nhiêu tan hết, hoặc lui về đội cũ, hoặc tan về chỗ công sở. Khi ấy đóng hết các cửa thành, quan binh chia từng đạo soát bắt hết cả.
Đinh Đạo mắc bọn nghịch phạm chiêu xưng, xử tội giảo quyết và thân thuộc con trai con gái cũng đều bị tội; Nguyễn Cúc1 tự tử, truyền chỉ đem thầy làm tội; bọn nghịch phạm đều bị chánh pháp Nguyễn Văn Xa, Nguyễn Văn Chất giao bộ nghị tội, quan phủ Thừa Thiên cùng quan Hộ thành đều bị cách giáng.

Khiến Giám mục Hậu cùng học trò là Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Điều qua Tây thuê thợ và mua đồ máy.

Lập nhà dạy học võ tại Kinh, ở góc thành phía tây đặt quan Chánh Phó học chánh.
Quan quân thứ Đông bắc là Nguyễn Tri Phương, Võ Trọng Bình thâu quân về, vào chầu. Ngài ban lời phủ ủy, sắc chế đồ y phục ban cấp; rồi cho Tri Phương lãnh Thượng thơ bộ Binh, kiêm kinh kỳ hải phòng sứ, Trọng Bình lãnh Thượng thơ bộ Lại kiêm Quốc tử giám; 2 ông đều sung Cơ mật viện đại thần.

Truyền khiến Đình thần xét tâu công trạng các viên biền bắt được bọn nghịch Trưng. Cho Hồ Oai thăng chức Đô thống dinh Long Võ, tấn phong Nghĩa dõng tử, nhưng sung Quản lãnh Thị vệ đại thần, thưởng thêm bài vàng, ngọc đeo các hạng; còn từ Lê Sĩ trở xuống, đều được thăng thưởng cả.

Tháng 9, quan Soái Đại Pháp ở Gia Định là Gia Lăng Gi Y về Tây, Ô Khởi qua thay.

Quan Khâm sứ Thượng thơ Đại Pháp ở Gia Định là Vi An cùng cố đạo Dương đến Kinh, lại xin đất 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đình thần nói rằng: "Hình thế 3 tỉnh ở xa cách, khó giữ lắm, chỉ vì việc quan hệ về thổ địa nhơn dân, không nên dễ dàng; xin khiến Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ qua Sứ quán, tuỳ cơ đối đáp cho khéo. Khi qua đến nơi, Phan Huy Vịnh và Phạm Phú Thứ thương nói với Khâm sứ Pháp Vi An hoài; Vi An trả lời rằng: "nếu bây giờ không chịu giao cho xong, e những người ứng mộ ngày càng thêm lung, rồi gây ra việc binh cách". Vi An đã về Gia Định, Ngài dạy Hoàng thân, Đình thần hội nghị, lại hỏi các tỉnh nghị thế nào phúc về, và tư cho Phan Thanh Giản, Trương Văn Uyển cùng quan tỉnh An Giang và Hà Tiên châm chước trù nghĩ cho kỹ lưỡng rồi phúc tấu lên.

Khi ấy những người Lục tỉnh mộ nghĩa lần lần đầu thú tại nha Dinh Điền ở Bình Thuận, Khánh Hòa cả thảy 500 người. Ngài khiến đều cấp cho tiền gạo đi khẩn ruộng.
Tháng 10, thưởng người có công đánh dẹp giặc phía Tây Bắc, hoặc gia cấp kỷ lục, hoặc cho tiền vàng, tiền bạc khác nhau.

Cho Tham tri Nguyễn Chánh sung Dinh điền sứ ở Nam Định, Hương lộ tự khanh là Đỗ Phát làm Phó sứ.

Quan soái Đại Pháp phú thơ xin định tờ hòa ước mới cho mau. Đình thần xin phái Tổng đốc.

Nguyễn Hữu Cơ cùng quan Kinh lược qua thương nghị. Ngài ban rằng: "Nguyễn Hữu Cơ là người thế nào mà chống với người ta nổi?. Ngài không theo lời Đình thần xin.

Ngài nghĩ võ công xứ Bắc Kỳ đã xong rồi, tướng sĩ kéo về, chuẩn cho Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình phục mạng. Khi hai người vào chầu, Ngài rót ngự tửu ban cho, và cho ăn yến, tấu nhạc, tướng sĩ biền binh đều cho dự yến, coi hát, cho thỏa tình trên dưới; lại ban tiền vàng và ngọc đeo các

1 Nguyễn Cúc là Tôn Thất Cúc, vì có tội bị đổi theo họ mẹ. hạng cho các quan Quân thứ và các quan Tỉnh mà có dự việc đánh giặc. Nhơn ban ân chiếu cả thảy 22 khoản.

Lập cửa Nhu Viễn tại sông Cấm (ở tỉnh Hải Dương) định ngạch thuế, lựa chọn người giỏi để coi việc (vì cớ các thuyền bang nước Tàu lúc trươc có giúp đánh giặc bây giờ xin ở lại buôn bán).

Tháng 12, đình bãi lệ "quyên tiền cho thăng hàm, cho phục chức và cho ra làm việc quan".

Phục lại lệ "Phủ cống Giám sanh" từ Quảng Bình trở vào Nam. (Lệ cũ thời các tỉnh trong phía Nam, mỗi phủ hạt được phép cống 1 người Giám sanh; đến năm Tự Đức thứ 6, lệ ấy đình bãi; bây giờ truyền dụ cho phục lệ lại cũ, cũng các tỉnh ngoài Bắc).

Năm Đinh Mão thứ XX (1867), tháng 2, các tướng giặc lần lần tới hàng; Ngài khiến phân tháp mỗi đứa ở mỗi nơi.

Mới mở trường thi Võ tại Hà Nội và Bình Định.

Mọi ở Quảng Nghĩa thường nhiễu hại dân, Tiễu phủ sứ Nguyễn Tấn sai người chiêu dụ, các Mọi đều hàng, chỉ Mọi Nước Tố chưa phục, Tấn liền đem quân đi tuần tiễu. Khi ấy nhơn đứa Man đinh là tên Mông trốn đi, Tấn đòi các Mọi đến hiểu dụ chúng nó an nghiệp, rồi đem quân về. Ngài khen phái đi hiểu dụ có công, tuỳ hạng ban thưởng tiền bạc.

Khi trước Kinh lược Phan Thanh Giản có đem 2 khoản mật thương với quan Pháp Soái cũ: 1. Chuộc lại 3 tỉnh; 2. Đổi tỉnh Biên Hòa. Quan Soái cũ trả lời rằng: "việc đó khó tính trước đặng". Đến đây quan Soái mới tới thay, viện Cơ mật xin sai Thanh Giản vào Gia Định thám thính ý quan Soái mới thế nào phúc tấu.
Tháng 3, Dinh điền sứ Trần Đình Túc xin mở mỏ sắt ở làng Lưu Biểu về huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên. Ngài truyền đem nấu thử, sắt tốt dùng được. Ngài cho làm.

Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình từ khi về tham dự việc Cơ mật, cùng các quan Đại thần nghị luận có điều trái ý không hòa nhau. Ngài nghe, ban rằng: "người Quân tử hòa mà có chỗ không đồng, chớ không phải việc chi cũng đồng mới gọi lên điện cãi nhau, đến khi xuống điện vẫn hòa như thường, kẻ làm tôi phải bắt chước như thế, nếu trên dưới lôi đồng, không phải là phước nhà nước. Các ngươi bàn việc, nếu có ý kiến gì khá, cứ cãi lẽ không hại gì, nhưng chỉ trong khi đó mà thôi, không nên có hơi hình tích". Nhơn khi ban trái vải cho đình thần dạy rằng: "trái nầy ngọt lắm, đức Tiên đế từng tự tay lấy ban cho Thân công và Đình thần, cũng là rõ ý thân nhau, các ngươi nên nhớ chuyện ấy".
Tháng 6, thưởng Tán lý Ông Ích Khiêm thăng Binh bộ Thị lang và cho một cái khánh vàng chạm 2 chữ "Hiếu nghĩa". Vì Ông Ích Khiêm trước ở quân thứ Hải Dương mộ binh dõng đánh giặc có công.
Nước Đại Pháp lấy 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Khi ấy quan Pháp Soái đem tàu binh nhiều lắm, chạy đến bến Vĩnh Long, khiến người đem thơ mời Phan Thanh Giản tới nói chuyện; Thanh Giản xuống tàu bàn nói thế nào, quan Pháp Soái cũng không nghe. Thanh Giản mới thương rằng: "xin Quý Soái chớ cho nhiễu hại nhơn dân, còn tiền lúa trong kho cứ để nước tôi coi ngó". Quan Pháp Soái thuận nghe. Trong giây phút Thanh Giản trở về, thời binh Đại Pháp đã vào bốn phía thành rồi. Quan Pháp Soái lại chia binh qua An Giang, Hà Tiên, cũng làm giống như tỉnh Vĩnh Long vậy; rồi đem các quan
3 tỉnh ấy để ở tại dinh Tổng đốc Vĩnh Long và sai tàu ra cửa Thuận báo tin. Ngài khiến Cơ mật và Thương bạc làm thơ thương thuyết, xin họ đưa các quan 3 tỉnh về Kinh. Thanh Giản nghĩ mình không công, đem tiền lúa 3 tỉnh chiếu khâu số bạc bồi năm ấy; rồi đem triều bào ấn triện và làm tờ sớ để lại gởi về dâng, liền không ăn mà chết.

Cho Phan Khắc Thận khởi phục hàm Binh bộ Thượng thơ lãnh Tuần phủ Nam Ngĩa. Vì lúc trước Khắc Thuận bị tội cách chức, đến đây sự thế hơi khác, Ngài đòi Khắc Thuận về Kinh để hỏi tình hình ngoài biên. Khi Khắc Thuận vào chầu, Ngài hỏi việc nước Cao Man gần đây thế nào? - Khắc Thuận tâu rằng: "Việc Cao Man đều là quan Đại Pháp coi ngó, tô thuế cũng phái người coi thâu".
Tháng 7, quan tỉnh Bắc Ninh tâu rằng: "Giặc trốn người nước Tàu là bọn Vi Tái Thọ thông mưu sanh sự, xin thêm binh để phòng giữ". Ngài khiến phái lính Thanh, Nghệ 500 tên lập tức ra Bắc Ninh; lại sai Ông Ích Khiêm sung Tiễu phủ sứ (sau Ông Ích Khiêm bắt giặc được 65 tên).
Tháng 8, bãi ty Bình Chuẩn và Dinh Điền Sứ ở Bắc Kỳ (vì cớ hại kẻ buôn và hại dân).
Làm Khiêm Cung rồi. Ngài ngự chế bài ký để chạm vào đá dựng nhà bia. Ngài nhơn làm bài minh để răn mình, lời minh rằng: "Dương Xuân chi thượng hề, duy dư chi trạch hỹ, sơn ti nhi địa tịch hề, diệc trạng dư khiêm ý dỉ tự trách hỹ, thù dữ dư đồng tâm dĩ hoàn dư chí bề, y cầu chi nhi vị hoạch hỹ, duy thiên kỳ giám hề, ngã tâm hữu như thử hạch hỹ". Nghĩa là: Trên Dương Xuân kia, kiểng nhà ta ở đấy ! Núi thấp mà đất quạnh xa, cũng giống ý ta khiêm ty để trách mình vậy. Ai cùng ta đồng tâm cho thỏa chí ta? Tha ôi ! Cầu mà chưa được đấy ! Xin Trời soi xét cho, lòng ta có như vừng đá ấy !.

Tháng 9, khiến phủ Tôn Nhơn và Đình thần nghị công tội bọn Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản. Ngài dụ rằng: "Xứ Nam Kỳ 6 tỉnh, khi đầu bởi tại Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp, Phạm Thế Hiển và Nguyễn Bá Nghi tiễu phòng không hết sức; khi giữa bởi tại Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp nghị hòa khinh bỏ; khi sau bởi tại Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản đi sứ không được việc gì; khi sau hết lại bởi tại bọn Phan Thanh Giản, Trương Văn Uyển, Nguyễn Hữu Cơ và Trần Hoán nhơn tuần nhác nhớm; nên đến nỗi mất 6 tỉnh ấy. Truyền lập tức nghị tội bọn ấy dâng lên, ta sẽ đoán định".

Tháng 10, đặt thêm huyện Hương Khê. Vì quan tỉnh Nghệ An tâu rằng: "Trong huyện Hương Sơn, nguồn Phố và nguồn Sâu chia ra 2 ngã, địa thế xa cách, mà trên nguồn Sâu đàng sông chảy qua huyện Minh Chánh thuộc tỉnh Quảng Bình. Bây giờ muốn mở thông đàng đi bộ và dự trù đàng vận chở, xin chia huyện Hương Sơn làm 2 huyện (Hương Sơn và Hương Khê) để tiện phòng giữ". Ngài cho.

Tỉnh Thái Nguyên thế giặc lừng lẫy, quan quân bị thua. Ngài cho phái quân giỏ ở tỉnh Bắc và lựa một viên Phó lãnh binh qua cho gấp, còn Tổng đốc Phạm Chi Hương thời ở xa điều độ. Chi Hương lại xin đổi Ông Ích Khiêm sung Ninh Thái Tiễu Phủ sứ, hội đồng Đề đốc Nguyễn Hữu Thận, Lãnh binh Lê Quang Nhung đem hết lính và voi đi tuần tiễu; lại đòi lính Hưng Yên và Ninh Bình 500 tên đi theo sai phái. Ngài cho.

Tháng 11, Ngài theo lời bộ Hộ tâu, cho đặt sở đánh thuế muối tại Bình Định và Bình Thuận. Vì mấy tỉnh ấy muối nhiều.
Lúc trước Ngài có truyền chỉ các xã thôn ở Phủ Thừa Thiên: mỗi 100 mẫu ruộng công, lấy 10 mẫu giao dân làm chung, lúa chín thâu cắt, làm kho chứa riêng, để phòng cứu năm mất mùa. Đến năm nay quan phủ Thừa Thiên tâu rằng: "lúa kho thâu trữ, lý dịch trong làng không khỏi na đi lấy lời. Xin xét hỏi các xã dân lâu nay đã cày ruộng trữ lúa, làng nào ưng để tại xã thương đặng đều nhờ lợi, thời cho như cựu; làng nào không tình nguyện, thời số ruộng nguyên trích bao nhiêu, giao lại quân cấp cho dân". Ngài dạy làm cho thỏa đáng, để cho được thuận tiện mà có thành hiệu.

Ngài khiến Hiệp tá đại học sĩ Trần Tiễn Thành vào Gia Định, Bang tá huyện Thanh Hóa là Nguyễn Văn Tường sung tùy phái, đều ban cho bạc. Vì Ngài nghĩ nước ta cùng Đại Pháp đã định hòa ước, bây giờ việc Nam Kỳ nên châm chước nghị lại, mà giấy tờ tư qua lại không bằng diện thương thời hơn, nên khiến Tiễn Thành sung Khâm sai vào định lời ước mới. Khi đi, Ngài lại cho một bài ca để khuyên gắng. (bài ca ấy chép trong văn tập).

Năm Mậu Thìn thứ XXI (1868), tháng giêng, ngày 1. Ngài ngự đền Cần Chánh, cho Đình thần làm lễ mừng Tứ tuần đại khánh tiết; rồi ban ân chiếu 15 điều khắp trong ngoài.

Quan quân thứ Thái Nguyên là Phạm Chi Hương tâu việc khu xử bọn giặc hàng. Lời tâu rằng: "bọn Châu Tường Lân, Đặng Vạn có lòng thiệt đầu thú, xin cho chúng nó hàm Bát phẩm bá hộ và cấp cho tư bản để mở mỏ và khẩn ruộng". Ngài dạy rằng: "giặc hàng hiện hơn 300 tên, phải lượng chỗ phân tháp, chớ cho nhóm ở với nhau; và lập điều ước rõ ràng, bắt chúng nó hết sức ngăn giữ giặc ngoài".

Giặc Cổ phỉ nước Tàu là Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi treo hiệu cờ trắng cướp phá châu Lục An. (thuộc tỉnh Tuyên Quang).

Tỉnh Ninh Bình bị bão lụt. Ngài khiến đong lúa xã thương 10.600 hộc và lúa kho 15.000 hộc cho dân mượn.

Tháng 2, nghiêm định trình hạn về việc đình nghị. Ngài dụ rằng: "từ Tham tri, Chưởng vệ đến Tán lý, đều phải hết sứ lo nghĩ, việc khó mà gấp, hạn trong 2 ngày phải cho rồi; việc khó mà hoãn trong ba ngày phải cho rồi; nếu đại thần có ức chế, mà đình thần nhơn tuần làm thinh, đến nỗi việc lâu không quyết được; như việc ấy không phải việc mật, thời cho Ngự sử và quan đương trực đàn hạch, nếu việc mật thời giao cho Bộ chủ thảo1 chỉ tên người có lỗi mà nghiêm tham. Đến như người ở chỗ công thời làm thinh, lui về thời bàn riêng, đem việc bật tiết lậu ra ngoài, sẽ bị tội năng".

Khiến các, tỉnh đạo, tìm mỏ than đá. Quan tỉnh Thái Nguyên đem kiểu than đá làng Sa Lung và làng Phú Xuân thuộc huyện Phú Lương đệ về, rồi qua đó đào lấy. Sau nhơn công trình hơi khó, than đá không đặng bao nhiêu, lại cho đình bãi.
Ngài nghĩ Nguyên khâm mạng toàn quyền đại thần Phan Thanh Giản công tội thế nào lâu nay chưa định rõ, bèn dạy định tội Phan Thanh Giản; còn các quan Đốc, Phủ, Bố, Aùn, Lãnh binh, nguyên lỵ 4 tỉnh Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên, người nào chưa cách chức thời cách ngay, nhưng tuân theo chỉ trước nghiêm nghị.

Giặc hàng là Ngô Côn lấy tỉnh Cao Bằng, Bố chánh Nguyễn Văn Vĩ bị bắt. (Vì giặc hàng là bọn Tạ Tịnh Xuyên lén dẫn Ngô Côn và đoàn binh giả đò vào yết, Văn Vĩ tin lầm, bọn nó nhơn khi không phòng bị kéo vào đánh, thành liền mất). Việc ấy tâu lên, Đình thần tâu xin giao cho Phạm Chi Hương đốc quân tiền đạo đánh giặc, đợi Văn Vĩ như thoát về được sẽ xét trị tội. Ngài nghe theo. (Ngô Côn trước ở Tàu nhiễu hại xứ Quy Thuận, quan quân Tàu đuổi bắt, nó mới trốn theo giặc Cổ phỉ, đã xin đầu thú nước mình, đấy đây lại phản).

Khi ấy binh dân phần nhiều bị giặc bắt bán cho ngoại quốc. Thông ngôn Nguyễn Đức Hậu tìm được 92 người chở về Hương Cảng (khi ấy Hậu tùy phái qua Tây), Tổng đốc nước Anh thuê giúp tàu chở về Quảng Nam. Quan tỉnh tâu lên, Ngài thưởng Hậu hàm Cửu phẩm hành nhơn, lại khiến Thị lang bộ Hộ là Trần Đình Túc đem đồ thổ sản qua Hương Cảng đáp ơn.

Tháng 3, đào lấy mỏ than đá ở núi thuộc tỉnh Quảng Yên.
Lúc trước quan Pháp Soái đã láy 3 tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, đổi làm hòa ước mới ép ta áp ký, rồi sẽ sai sứ qua Tây luôn. Đình nghị cho Lễ bộ thượng thơ Nguyễn Văn Phong, Thị lang Phan Đình Bình, Thị độc học sĩ Thành Hóa huyện Bang tá Nguyễn Văn Tường sung sứ bộ qua Đại Pháp và qua luôn Anh Cát Lợi, Y Pha Nho, xét hiện tình về phúc tấu. Nhưng rồi không đi. Ngài khiến tòa Thương bạc làm thơ đưa cho quan Pháp Soái biết và gởi tờ quốc thơ nhờ quan Soái đưa về Pháp đình.

Tháng 4, phái bọn Lê Văn Hiển cả thảy 5 người vào trường Gia Định học tập chữ Pháp với giáo sư Trương Vĩnh Ký.

Tướng giặc Ngô Côn vây đồn Lạc Dương. Ngài dụ khiến Phạm Chi Hương tư cho quan quân Tàu hội tiễu.

Nước Tàu sai biền binh hơn 4.000 người đến xứ Khâu Thường thuộc tỉnh Lạng Sơn hội tiễu. Ngài khiến lựa lính tinh tráng tới gấp hội với quân Tàu đánh giặc.
 
Truy phục chức hàm cho các ông Vọng Các Công thần là Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt đềeu cho liệt tự miếu Trung hưng công thần. (ông Thành truy phục Chưởng trung quân đại tướng quân Quận công, ông Duyệt truy phục Chưởng tả quân đại tướng quân).

Tháng 4 nhuận, Tán lý Ông Ích Khiêm và Đề đốc Nguyễn Viết Thành đem quân hội đồng với Phó tướng Tàu là Tạ Kế Quý đánh phá giặc ở xứ Thất Khê, giải vây đồn Lạc Dương. Đặng tin thắng trận, Ngài dụ ra khen thưởng và khiến qua gấp lấy lại tỉnh Cao Bằng.

Tỉnh Sơn Tây mưa đá giọt to như trứng gà, giọt nhỏ như bột ngô đồng.

Quan phủ Thừa Thiên là Tôn Thất Tư dâng lộc nhung làm lễ chúc hộ. Ngài khước đi, dạy rằng: "các người làm cho xứng chức, không để lo cho ta, thời hơn chúc hộ nhiều lắm".

1 Bộ chủ thảo là bộ làm giấy mực về việc ấy.


Khiến tỉnh Khánh Hòa đào lấy than đá ở núi Diên Cơ, rồi nhơn than ấy nhiều đá cứng, lửa đốt không cháy, liền đình bãi.
Tháng 5, mở mỏ sắt Phố Lý thuộc tỉnh Thái Nguyên, mỗi năm lấy thuế 300 cân.

Ngài nghĩ mấy khoa thi Hội mới rồi, từ tỉnh Quảng Bình vào Nam người đậu Tấn sĩ ít lắm, vả lại thi Hương thời bên lương bên giáo hay làm náo trường, bèn sức các học thần phải thường dạy học trò những điều binh, tài, thao lược, nông điền, thủy lợi; nhưng giao cho các thượng ty ở phủ Thừa Thiên, Quốc tử giám, các tỉnh, các đạo, xét hạch những giá chức tâu lên.

Ngài nghĩ gần đây trong nước nhiều việc, dụ rằng: "tháng 8 năm nay gặp lễ Tứ tuần đại khánh tiết, những việc chi cáo1 đàm ân2 đều theo lệ cũ mà làm, còn lễ triều, hạ, tấn hiến, Yên nhạc, trần thiết mấy sự phù phí ấy đều bãi cả".

Thủy Xá và Hỏa Xá dâng lễ hạ, xin đến ngày lễ vào lạy khánh tiết. Ngài chuẩn giao cho đạo Phú Yên nhận đệ phẩm nghi mà tha hai nước ấy khỏi tới Kinh làm lễ.
Đào lấy than đá núi Hoàn Ngạc, thuộc tỉnh Quảng Yên (chất đá bền chắc, khi đốt cháy có ngọn lửa).

Giặc Cổ phỉ cướp phá, tỉnh Lạng Sơn tư qua phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây đem binh tới hội tiễu.

Lưu Vĩnh Phúc, Hoàng Thắng Lợi hiệp với giặc trốn là Hoàng Tân Hưng toan đánh phố Bảo Thắng (thuộc tỉnh Hưng Hóa). Ngài khiến quan tỉnh là Nguyễn Huy Kỹ và Tổng đốc thống hạt là Nguyễn Bá Nghi phải điều độ cho yên. (Vĩnh Phúc tiết thứ đánh giặc, được thưởng Bá hộ, Thắng Lợi đánh được giặc một trận; rồi chúng nó lại đem bè bạn qua Hưng Hóa).

Phát chẩn cho dân châu Tiên Yên thuộc tỉnh Quảng Yên (dân tổng Bác Vọng bị giặc đốt nhà cướp của).

Tháng 6, khiến Lê Toán, Nguyễn Tư Giản, Hoàng Tịnh đi sứ Tàu. Khi ra đi, Ngài cho bài thơ khuyên gắng.
Tàu nước Xích Mao vào đậu cửa Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định.
Định lệ "thăng trật cho Các sĩ, Nhã sĩ, văn võ Tấn sĩ và Phó bảng". Ngài dụ rằng: "phàm Cát sĩ, Nhã sĩ, văn võ Tấn sĩ, Phó bảng, trừ người nào đã xét đáng thăng ngoại, còn bao nhiêu thời tại chức đủ 3 năm mà can công tội hoặc tư tội chưa đến giáng điệu trở lên, quan thượng ty phải tâu cho thăng 1 trật, đến ấn quan thời thôi, từ đó về sau thăng trật sẽ theo lệ khác; còn như người bị tội giáng điệu, hoặc đới giáng mà thuộc về công tội, không phải các tội nặng như tội "thất thủ" và tội "thua giặc", thời cũng cho đủ 3 năm tâu xin khai phục, từ đó về sau cũng lần lần thăng được; nếu can tội về mấy khoản nặng đó, thời phải có thiệt trạng hiệu lực chuộc tội, mới đặng khai phục, rồi cũng chiếu thứ thăng lên. Từ nay về sau lấy đó làm lệnh".

Tháng 7, quan quân bị thua tại đồn Tú Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn, Tham tán Nguyễn Mại (Tấn sĩ, người tỉnh Sơn Tây) và Phó đề đốc Nguyễn Viết Thành đều tử tiết, Thống đốc Phạm Chi Hương bị giặc bắt. Nay Nguyễn Tri Phương xin đi ra bắc. Ngài nghĩ Tri Phương đã từng khó nhọc, muốn để ở triều cho trân trọng, nên không cho đi.
Đảng giặc đánh lấy đồn Lạc Dương. Ngài khiến Thảo nghịch hữu tướng quân Phan Khắc Thận tới Lạng Sơn thương đồng với Tuần phủ và đạo quan quân mới phái hết sức phòng giữ, đợi Bình khấu tướng quân Đoàn Thọ tới, rồi sẽ về Tuyên Quang.

Tỉnh Hải Dương đói. Ngài khiến quan tỉnh chia chỗ lập nhà tạm cho dân đói ở, chiếu lệ cấp nuôi. (Đàn ông và đàn bà mỗi người mỗi tháng cấp 1 quan tiền, 15 bát gạo; con trẻ 5 tiền, 10 bát gạo).
1 Chi cáo là kính cáo nhà Tôn Miếu.

2 Đàm ân là ban ơn cho thần dân.

Thưởng Ngự sử đạo Hà Ninh là Phạm Doãn Địch gia 2 trật. Vì khi trước Doãn Địch làm Tri huyện Nông Cống, (thuộc tỉnh Thanh Hóa) mộ dân đinh mới và chiêu dụ dân cũ xiêu tán về lập đặng 9 ấp, số đinh được 41 người, trưng thêm ruộng đất lậu và khai hoang được 1.579 mẫu, lập Nghĩa thương 37 sở, chứa tiền được hơn 3.400 quan, lúa hơn 4.700 hộc. Đến bây giờ quan tỉnh tâu lên. Ngài khiến gia thưởng để khuyên kẻ làm Phủ Huyện xứng chức.
Khi ấy công tác luôn luôn. Quan Tổng đốc Bình Phú là Thân Văn Nhiếp tâu rằng: "Tôi xem sự thế ngày nay, đất cũ phía Nam bị mất, giặc giã phía Bắc càng nhiều, bão lụt và hạn chỗ nào cũng báo, mà làm sở Vạn Niên cơ tốn xấp mười lăng Thiên Thọ; vả lại, ngói sắt mua ở Hạ Châu, hia hốt mua bên Hương Cảng, gấm tốt và đồ đựng rượu năm nào cũng phái người đi mua, đờn tây và đồ vẽ tây năm nào cũng có giấy trả tiền; nay lâu trong cung vừa rồi, lại làm lầu ngoài bờ sông, hay là Ngài nghĩ rằng làm vậy cũng không hại chi chăng? - Ngài ban rằng: ngươi trách mấy chuyện, đều là lỗi tại ta, chỉ vì nay nhiều việc, ta lại lắm bệnh, nếu câu thúc quá, thời ta chịu không kham, còn có sức nào trị nước được? Hễ người ta đến khi thác rồi thời tâm tích hay dở mới rõ, không đợi ai nói. Nhưng đạo làm tôi thường nên can gián khiến ta được nghe điều lỗi là phải, chớ lòng ta giữ gìn vốn không dám sai, lúc bình sanh ta đã học thế nào mà bây giờ ta toan dối ai?
Ngài thường có bài thơ "thuật hoài" rằng: "Tuy vô Đàng thái tài, diệc hữu Hán văn chất. Nan tỉ Nhan tử ngu, cảm vị Bá Ngưu tật, Thậm quý Y Xuyên dưỡng. An đắc Võ Hầu bật. Hạnh ngộ Tạ Huyền hạc, Hựu phùng Giản dịch ất. Miễn như Phi tướng số, duy vọng Linh y thuật, Thâm giới Lý Quý ngôn, nguyện giám Thành Thang thất". Nghĩa là: Tuy không tài Đàng Thái, cũng có chất Hán văn. Nhan Tử ngu, khôn kịp: Bá Ngưu tạ, chửa từng. Hổ với Trình hàm dưỡng. Cầu đặng Lượng trung thuần. Tiếng hạc reo quân Tấn. Trứng én nở lòng Ân. Khói như người số lẻ, mong được thuật y thần. Kiệt lời kiêu, nào dám; Thang trách lỗi, xin tuân. "Kinh dịch ý bài thơ - Ngài nói: Ngài tuy không tài dẹp loạn như Đường Thái Tôn, cũng có tư chất tốt như Hán Văn đế. Ngu đâu sánh thầy Nhan Tử, nghe một biết mười; bệnh không đến như Bá Ngưu, người ấy tật ấy. Hổ với Y Xuyên, chủ lý học để dưỡng tánh trời. Ước đặng Võ hầu, tài vương tá để ra giúp nước. Đánh giặc Tần có tướng Tạ Huyền, mượn tiếng hạc mà trợ oai quân Tấn. Sanh ông Khiết là bà Giản Định, nuốt trứng chim mà mở nghiệp nhà Ân. Tài giỏi số cùng, khỏi như Phi Tướng (Lý Quảng); thuốc hay chữa bệnh, trông được linh y. chỉ mặt trời nói khoe, dám răn lời Hạ Kiệt; cầu trời mưa tự trách, xin bắt chước Thành Thang".
Mùa thu trời lạnh, Ngài thương tướng sĩ xông pha sương tuyết, rồi sai thị vệ đem áo mắc lạnh ra ban cho hưởng soái 3 đạo quân thứ và những tướng tá văn từ Thất phẩm võ từ Suất đội trở lên, mỗi người 1 cái. Lại khiến 6 tỉnh ngoài Bắc Kỳ may áo mặc lạnh cấp cho binh dõng.

Khâm phái Trần Đình Túc từ Hương Cảng về (trước qua tạ ơn nước Anh), Ngài khiến lại coi việc đồn điền. Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế tâu rằng: "chúng tôi xét cửa biển Trà Lý thuộc tỉnh Nam Định, bãi cát cao rộng, nhà cửa ở được yên ổn; cửa biển hơi sâu, tàu thuyền đậu được vững vàng; đàng thủy thông với tỉnh Nam Định, cũng là một chỗ rất quan yếu; còn đàng biển thời thuyền Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương và các xứ Nam Bắc đều tới đó nhóm đậu được; đàng sông thời từ Nam Định đến mấy hạt miền thượng du các tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Bắc Ninh, Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, qua lại đều được tiện lợi. Gần đây tàu buôn các nước tới đậu nhiều, chỗ ất cũng là chỗ tốt. Vậy xin cho mở hàng buôn bán, cho dân tới buôn và nhóm cửa thiên hạ để tính việc lâu dài". Ngài giao đình thần nghị, nhưng rồi không thấy thi hành.

Gặp lễ Vạn thọ tứ tuần đại khánh tiết, ban ân chiếu cả thảy 34 điều.
Sách Đại Nam hội điển sự lệ in rồi, truyền ban cấp cho các nha môn ở Kinh và ngoài các tỉnh. Tháng 9, thưởng tên Bùi Đức Trường người làng Tam Đăng tỉnh Nam Định. Vì Đức Trường lập xã thương có thành hiệu. (Đức Trường xướng suất người lành lập nghĩa thương, để gặp năm mất mùa trích tiền lúa chẩn cấp cho dân nghèo khỏi xiêu tán, mà việc binh lương cũng không thiếu. Quan tỉnh tâu lên, Ngài thưởng Tùng cửu bá hộ).

Tháng 10, cho Võ Trọng Bình lãnh Tổng đốc Hà Ninh, nhưng sung Khâm sai đại thần 3 đạo quân thứ Tuyên, Thái, Lạng. Vì Ngài nghĩ Trọng Bình khi trước đã làm Tổng đốc Ninh Thái và Kinh lược Lạng Bằng, tình thế giặc và địa thế vẫn rõ hơn, nên Ngài sai đi.

Giáo dân Đinh Văn Điền, người huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình, mật tâu sự nghi như sau nầy: "lập sở Dinh Điền, mở mỏ vàng, làm tàu hỏa, rước người Thái tây qua dạy; kết với nước Anh làm viện, lập nhà thông thương hàng hóa; tha cấm binh thơ binh pháp, cho người trong nước học tập; quân lính thời khiến chuyên tập nghề bắn, bớt làm việc quan và thêm lương ăn để chúng nó duyệt tập cho siêng, khi lâm sự thời thưởng phẩm hàm cho hậu, tử trận thời xét cho cháu mà dùng, tên nào bị tật bị thương thời cấp lương nuôi trọn đời". Đình thần nghị rằng mấy điều ấy chưa hiệp thời thế, bỏ qua không làm.
Đào các đàng sông thuộc 2 làng An Phú và Lương Điền về phủ Thừa Thiên.

Lại khoa cấp sự trung Nguyễn Tạo trước làm Tri huyện Phù Cát, (thuộc tỉnh Bình Định) thanh liêm, công bằng, lại và dân đều tín phục, ruộng đất ngày càng mở mang, trộm cướp cũng đều yên lặng; trong huyện có 2 làng An Lạc và Vĩnh Thắng dân nhiều ruộng ít, Nguyễn Tạo hiểu khuyên làng Chánh Lợi nhượng ruộng công cho làng An Lạc 15 mẫu, làng Vĩnh Thắng 10 mẫu, cộng 25 mẫu. Quan tỉnh là Thân Văn Nhiếp tâu lên, Ngài thưởng 1 cái khánh tử kim hạng nhứt, trong khắc 4 chữ "liêm bình cần cán" và cho thăng Tri phủ nơi tối yếu khuyết; lại truyền thông lục việc ấy cho các phủ huyện trong ngoài đều biết để mà gắng sức. Còn làng Chánh Lợi cũng được thăng thưởng 1 bức biển ngạch khắc 4 chữ "Mỹ tục khả phong".

Tháng 11, Ngài nghĩ việc hình án trong ngoài phần nhiều thường để trì trệ, truyền các quan Bộ, Phủ, Tỉnh, Đạo đem các án liền tra xét lại, y kỳ hạn kiết nghĩ cho rồi, hễ tên nào còn giam lại, để chờ án, cũng phải làm cho mau xong, tên nào không tội, nên tha cho về làm ăn. Lại sức các nha môn coi việc hình án tại Kinh và các tỉnh cứ tuân vậy mà làm.

Đình thần tâu công tội Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Bá Nghi, Võ Trọng Bình. Sớ ấy chia làm 2 tập: 1 tập nghị xử tội về việc mất 3 tỉnh Nam Kỳ, 1 tập nghị thưởng công về việc dẹp yên giặc Bắc Kỳ. Ngài nghĩ đình nghị chưa được minh chánh, mới sửa lại rằng: Tri Phương và Bá Nghi cho khỏi giáng, nhưng đình phong tước; Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp đều bị truy đoạt chức quan, lại đục tên trong bia Tấn sĩ, ghi tội "trảm giam hậu" đời đời; Võ Trọng Bình xử trí giặc hàng không xong, cũng đình phong tước.

Lựa con thứ hai ông Hoàng đệ Kiến thụy công Hường Y vào ở viện Tập Hiền cũ, khiến quan Nội các dạy học. Khi ấy ông đã 17 tuổi (tức là ngài Cung Huệ hoàng đế).
Tháng 12, ba người Giám mục là Đông, Hậu, và Bình do bộ Lễ kêu đơn xin tha gọi Giáo dân bằng "Dậu dân"1. Bộ Lễ nghĩ tâu rằng: "Triều đình thương dân như một, xin đừng phân biệt Lương Giáo làm gì". Ngài cho.

Lại định lệ thuế nhập cảng ở sông Cấm. Vì lệ mới hơi nặng, người Tàu không muốn buôn bán, cho nên định lại.

Năm Kỷ Tỵ thứ XXII (1869), tháng giêng, mở rộng đàng sông huyện Hương Trà (Từ cửa Nham Biều đến làng Vân Cù).

Lại định lệ "các quan Phủ, Huyện lỵ chức triệt lưu:" (Phàm các quan Phủ, Huyện, Châu thăng bổ chức khác hễ có việc quan khẩn lắm, mới cho ly chức cũ, quan thượng ti liền phái người quyền nhiếp; như được thăng, khi tiếp chỉ lục, quan thượng ti liền sức cứu 3 viện Binh, thuế, án kiện, xem khi ở nguyện lỵ có làm thanh thỏa hay không, đáng lỵ chức hay là đáng triệt lưu, lập tức tư cho Bộ biết; nếu quan nguyên lỵ lệ đáng ly chức, thời chỗ khuyết đó quan thượng ti lựa người bảo cử, hoặc tư lựa bổ, khi có chỉ rồi liền sức quan mới mau đến, hai bên giao nhận cho xong, quan cũ mới đặng lỵ chức; như quan cũ lệ đáng triệt lưu, thời hạn cấp cho ở lại, sẽ chiếu theo lệ mà làm).
Khi ấy Phùng Tử Tài nước Tàu vâng lời dụ qua cửa ải đi hội tiễu giặc Ngô Côn. Ngài nghĩ quân tình bấy lâu báo chậm, bèn khiến các quan 3 đạo quân thứ Tuyên, Thái, Lạng, cứ 10 ngày một lần đem hiện tình tâu lên.

1 Dậu nghĩa là cỏ lác, thường làm hại lúa.


Tháng 3, khiến Lang Trung Lê Huy qua Hạ Châu mua tàu máy. (Sau vì không biết tàu máy hạng cũ mới thế nào, lại đưa thơ nhờ Pháp Soái chiếu cố).

Đề đốc Tàu là Phụng Tử Tài đánh phá 2 đồn giặc ở Khô Châu và Lăng Mẫn thuộc Cao Bằng, đưa thơ khiến ta hội quân phá đồn Thông Huề, tới đánh Mọc Mã và Kỳ Lừa, Bản Đại, thẳng lấy đất Phong Lạc. Ngài khiến Võ Trọng Bình, Nguyễn Hiên đem binh đến hội.
Tháng 4, lại cấm chở gạo bán ra ngoại quốc.

Lại định lệ "sát hạch người học chữ Tây" chia hạng thưởng phạt.
Tháng 5, lại định lệ "thưởng phạt người cử tri": (người được cử như sau làm việc giỏi, được thưởng 2 cấp, thời người đứng cử được thưởng 1 cấp; nếu người được cử sau bị tham tang tội nặng, thời người đứng cử chiếu theo tư tội giáng 1 cấp điệu; còn đình thần công cử, thời thưởng phạt cứ người đứng đầu giấy và người chuyên cử).

Lấy lại tỉnh Cao Bằng.

Lập nhà Dục Đức ở ngoài cửa Hiển Nhơn. Tháng 7, Ngài cho Hoàng trưởng tử ra ở đó đọc sách. Thủy Xá và Hỏa Xá khiến Chánh sứ Kiều Linh và Phó sứ Sơn Lý dâng phẩm nghi mừng lễ Đại khánh tiết. (Mỗi nước dâng 1 ngà voi).

Tháng ấy gặp lễ Lục tuần đại khánh tiết đức Hoàng thái hậu, ban ân chiếu 21 điều khắp trong ngoài.

Đào kênh sắt ở Nghệ An, 4 tháng mới rồi (từ tháng 5 đến tháng 9). Ngài khiến quyền lãnh

Thượng thơ bộ Công là Nguyễn Chánh ra đó phúc khám.
Tháng 6, cho Aùn sát Hải Dương là Tôn Thất Thuyết sung Tán tương đạo quân thứ Thái Nguyên.

Tháng 7, Viên ngoại bộ Binh Trương Văn Đễ và Tú tài Trương Quang Đản (con quan Cần chánh đại học sĩ Trương Đăng Quế) xin ra Sơn Tây, Bắc Ninh mộ quân nghĩa dõng đánh giặc. Ngài cho.

Tháng 8, quan quân đánh phá giặc Thổ ở phủ Phú Bình, Hiệp quản Phan Văn Đồng được thăng Vệ úy (vì chém được quân cờ đầu giặc).

Tháng 9, lựa lập Hoàng tử: con trưởng tử Ngài Kiên quốc công (tức là đức Cảnh Tôn) năm Tự Đức thứ XVIII, Ngài vào cung mới có 2 tuổi, bây giờ Ngài đã 6 tuổi; với con thứ 2 Ngài Kiến thuỵ công (tức là đức Cung Huệ) lúc ấy đã 18 tuổi.

Phú Yên, Bình Định, Quảng Nghĩa, Bình Thuận lại bị tai Hoàng trùng.

Thương tá Nam Định Hải Phòng lãnh Đốc học Doãn Khuê xin từ chức Đốc học để đi khuyến quyên mộ dân khẩn đất Long Sai gần biển, hễ trong 3 năm thành điền, thời để một phân làm ruộng công, hai phần làm ruộng tư nhưng chiếu số quyên nhiều ít xin thưởng phẩm hàm và bổ làm việc. Ngài cho. Cho Doãn Khuê làm Dinh điền sứ, Đỗ Phát làm Phó sứ.

Tháng 10, đình thần tâu rằng: "đạn trái phá là đồ lợi khí việc binh, xin hỏi cả các địa phương có người nào quen nghề chế đạn và tính chừng độ đạn đi được mấy, đều cho tới bộ Binh đầu đơn, Bộ sẽ xét Công xảo tại sở Đốc công, hễ người nào biết rõ máy móc tàu hỏa, chế máy cưa và biết nấu đồ đồng đúc súng, thời không nệ nội ngoại tịch dân, đều mộ cho đông để sung vào sở ấy". Ngài cho.
Tán lý quân thứ Tuyên Quang là Trần Đình Túc tâu: "phố Bảo Thắng là một chỗ buôn bán có lợi, mà Lưu Vĩnh Phúc tánh dữ tợn khó kiềm chế; vậy xin giao Tổng đốc Sơn Tây là Nguyễn Bá Nghi thương với Phùng Tử Tài sức Lưu Vĩnh Phúc về Tàu". Ngài cho.

Bộ Hộ tâu rằng: "Lợi trong 10 năm chi bằng trồng cây, xin tư các quan địa phương sức khắp trong hạt lựa mấy chỗ đất hoang để trồng chè, dừa, mít, hạn trong 50 năm giao cho quan địa phương khám thiệt thành hiệu sẽ nghĩ cách thưởng". Ngài cho.
Tháng 11, nước Đại Pháp sai Quan Năm đến Kinh đưa quốc thơ nói việc giao lại 3 tỉnh An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long. Phủ Tôn Nhơn và đình thần xin làm thơ đáp lại, mà trong thơ nên nói 2 nước phải định ước cùng nhau cho hiệp lẽ công bằng và xin trả tỉnh Biên Hòa cho ta quản hạt, còn thiếu bạc bồi bao nhiêu cũng xin đừng tính nữa". Ngài y theo.

Năm Canh Ngọ thứ XXIII (1870), tháng giêng, quan Pháp Soái mới ở Gia Định là Co No đưa thơ nói nghị định ước mới. Ngài truyền hỏi Tổng đốc Bình Phú Thân Văn Nhiếp và Tổng đốc An Tĩnh Hoàng Tá Viêm. Hai ông đều tâu: "Xin đưa thơ cãi lẽ và xin nhờ các nước hội đồng làm chứng (như các Trấn mục ở Hạ Châu, Hương Cảng, hoặc các nước bên Thái Tây) để cho lời hòa ước được chắc chắn". Đình thần là bọn Trần Tiễn Thành đều tâu: "Xin đợi nước Đại Pháp đáp thơ lại, mới hiệp sự cơ; lại xin đợi định lời ước rồi, giao cho quan Khâm sứ thương với quan Pháp Soái". Ngài y theo.

Lựa con thứ ba ngài Kiến quốc công đem vào trong cung và truyền bà Khiêm phụ họ Nguyễn Văn nuôi làm Hoàng tử, (tục là đức Giản tôn Nghị hoàng đế).

Tháng 3, quyển Hình bộ tiểu sách làm rồi (trong quyển ấy chép các điều lệ mới nghị lại hay là bổ thêm), dâng Ngài ngự lãm. Quyển sách ấy làm từ năm Tự Đức thứ 8 đến năm thứ 12 lại làm nối theo.

Nước Y Pha Nho sai sứ A Đôn Pho Bắc Xu đến Kinh đáp lễ. Sứ thần xin vào chầu dâng tờ quốc thơ, trong thơ đại ý nói rằng: "nước ta năm thứ 16 và năm thứ 21 có đưa thơ qua nước ấy, vậy nay đến đáp lễ và xin thông thương; vả lại các nước có vào ước hội thời mới tin nhau mà giúp nhau vân vân". Nước ta nghĩ thơ ấy nói không chắc chắn việc gì, nên không trả lời.
Tháng 4, mua chiếc tàu đồng máy hiệu Đằng Huy giá bạc 72.824Đ.

Tùng Thiện công Miên Thẩm mất. (Tên tự ông là Trọng Uyên, hiệu là Thương Sơn, ham học, làm thơ nhiều lắm; sau được tặng Quận vương).

Tháng 5, An Tĩnh Tổng đốc Hoàng Tá Viêm vào chầu. Khi ấy Ngài thường ngự bắn nơi Thuận Trực, Tá Viêm dâng sớ can; rồi lại ở Kinh vài tháng đợi thương thuyết việc Thái Tây, sau mới về trấn.
Đổi 4 tổng Đan Niệm, Trú Bảo, Bắc Lũng. Trạm Điền nguyên thuộc về huyện Lục Ngạn, nay cho thuộc về phủ Lạng Giang tỉnh Bắc Ninh.
Tuần phủ Quảng Tây nước Tàu đưa công văn nói rằng:

"Từ nay phàm dân Tàu đem hàng hóa tới nước ta buôn bán, ta phải xét có giấy tờ quan địa phương bổn xứ nhận thiệt mới được; nếu không giấy tờ mà lén vào địa phận nước ta, thời không kể có phải bọn giặc hay không, đều bắt trị tội". Ngài khiến sao công văn ấy giao ra Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Quảng Yên, Thái Nguyên mỗi tỉnh một tờ, đặng biết mà làm.

Tháng 6, khi ấy giặc trốn còn chưa yên hết, nhưng quan Soái Phùng Tử Tài sợ chỗ hiểm trở lam chướng, đã phá được đồn Hà Dương, nhơn gặp hồi mưa lụt, quân khó kéo tới, mới tư cho ta xin triệt quân về Tàu.

Truyền chỉ từ nay phàm các nhà giam ở trong Kinh và ngoài các địa phương, hễ gặp mùa đông lạnh đều phải kiểm soát tù phạm, đứa nào cùng nghèo, cho trích tiền công may áo quần ban cấp, để rõ lòng thể tất.

Tháng 7, hiệp 2 đạo quân thứ Lạng Sơn và Bắc Ninh làm một, cho Đoàn Thọ làm Tổng thống Bắc Kỳ quân vụ.

Tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ Lỗ Sĩ, quan Pháp soái hương ta cho biết, Ngài khiến quan Thương bạc làm thơ hỏi thăm.
Tháng 10, sai sứ qua Tàu: Ngài nghĩ tên Ngô Côn đã chết. Nên khiến bọn Nguyễn Hữu Lập đệ biểu văn và thổ sản qua tạ.
Lại định lệ "xã thương và nghĩa thương" (trích ruộng cày cấy thân lúa trữ lại, gọi là xã thương; quyên tiền lúa chức lại gọi là nghĩa thương. Quan tỉnh hoặc quan đạo tùy thời thâu phát, chẩn cấp cho dân; hễ làng nào làm có thiệt hiệu, thời thưởng cho bức biển ngạch khắc 4 chữ "Thiện tục khả phong").

Đảng giặc Tô Tứ ban đêm lấy tỉnh Lạng Sơn, Đoàn Thọ bị chết, Võ Trọng Bình, Nguyễn Văn Tường và Đặng Toán trèo thành chạy; liền đưa thơ qua Tuần phủ Quảng Tây và Đề đôc Phùng Tử Tài nhờ thỏa liệu cho.
Cho Hoàng Tá Viêm sung Lạng Bằng Ninh Thái Thống đốc quân vụ đại thần, Tôn Thất Thuyết sung Tán tương. Ngài ban cho Tá Viêm 1 cây gươm Thượng phương và 5 lá cờ Quân lệnh mà dụ rằng: "Ta ban gươm cho Khanh, cũng như vua Thái tổ nhà Tống ban gươm cho Tào Bân vậy1.

Tháng 11, Định An Tổng đốc Nguyễn Hiên tâu rằng: "sông Ngự Long và sông bán Thuý về huyện Tiền Hải, đều hấp nước cửa biển Lân, xin ngăn đắp lại cho nước mặn đừng tràn vào; vả lại sông Liêm trên từ cửa sông Nguyệt Lâm suốt đến cửa khe Trình Phố, chảy xiên ra sông Bán Thuý, xin mở đào từ đoạn về rộng cho được 8 trượng, bề sâu cho được 5 thước, hai bên đều đắp bờ nhỏ, để phòng nước lụt; chỗ nào lấn vào công tư điền thổ bao nhiêu, thời trừ ngạch thuế cho dân".

Năm Tân Vị thứ XXIV (1871), tháng giêng, khiến các quan văn võ ấn quan ở Kinh đều phải xét kẻ thuộc viên.
Tỉnh Quảng Bình đói, Ngài khiến 2 tỉnh Thanh, Nghệ, trích 20.000 phương gạo chở vào chẩn cấp và sức thuyên buôn chở gạo tới bán.
Tháng 2, dân làng Ngoại Lãng Điền thuộc tỉnh Nam Định cảm mộ quan An tây mưu lược tướng quân Hiệp tá đại học sĩ Doãn Uẩn là người khi sống làm quan có tiếng danh tiếng, xin lập nhà thờ. Quan tỉnh đem việc tâu lên, Ngài truyền cho.
Hoàng Hữu Tài đánh giặc Bắc ở xứ Quán Tư, bị chết trận. Ngài cho truy tặng Thị giảng học sĩ, ban tiền tuất xấp hai và cho con cháu chiếu lệ khai ấm.

Hoàng Tá Viêm cùng Bố chánh Bắc Ninh là Phạm Thận Duật phá tan đảng giặc.
Tháng 3, Ngài ngự duyệt binh thủy, binh bộ sởo sông Kim Long với càu Bạch Hổ; trước diễn thủy trận, sau diễn voi trận.

Lãnh Án sát Cao Bằng là Đặng Duy Trinh lấy lại thành tỉnh. Ngài cho thăng Bố chánh, Lãnh binh và các tướng hiệu đều được thăng thưởng.

Tháng 4, cho quan thự Hình bộ Thượng thơ Lê Toán sung Khâm sai thị sư.

Tháng 5, quân Tàu tới đồn Quang Lang thuộc tỉnh Lạng Sơn, giặc Cổ phỉ sợ, chạy tan, đàng chở lương mới thông.

Ngài truyền quan phủ Thừa Thiên là Nguyễn Hanh rằng: "Đất bồi ở sông còn có chỗ cày được, ngươi phải hết lòng khuyên dân khẩn trị, nếu chúng có tư bổn không đủ, thời cho lãnh tiền công mà làm, khiến có thành hiệu, để được lợi ích muôn đời.

Khiến các văn võ ấn quan trong ngoài xét cử người hiều tài, chia làm 8 hạng (Ngài nghị khoa mục còn có khi làm sót kẻ nhơn tài, vậy nên Ngài khiến xét: 1. Những người đức hạnh hiền lành; 2. Tài trí rộng sâu; 3. Giỏi việc trị dân; 4. Giỏi việc trị binh; 5. Giỏi việc thương thuyết; 6. Giỏi việc Lý tài; 7. Văn học rộng thông; 8. Kỹ nghệ khéo, biết chế đồ khí vật, hay là tinh nghề thuốc, nghề bói, coi thiên văn và làm lịch. Những mấy hạng ấy các quan phải hết lòng xét kỹ tâu lên).
Thị lang Tham tá Nội các Trần Hy Tăng tâu xin thân sức trong ngoài phàm cử ấn quan và phủ huyện các nơi rất phiền kịch phải tuân chỉ dụ khi trước: "Người nào chắc có tài đức xuất chúng, đáng bổ nha nào hoặc bộ nào, hay là có sự trạng thiết thiệt làm được nơi phủ huyện phiền kịch, thời đừng phân biệt trung châu hay là biên châu; tựu trung có điều gì kém chũng nên chỉ nói rõ ràng; như không người bậc ấy thời thôi. Khi nào cần lựa người bổ, thời những kẻ tài thức cao xa lâm thời hầu chỉ Ngài lựa dùng, còn những phủ, huyện, giáo, huấn ở ngoài, cũng xin hạn đủ 3 năm mới được thăng chuyển; như khuyết

1 Xưa vua Thái tổ ban gươm cho Tào Bân mà dạy rằng: "Từ phó tướng trở xuống, ai không nghe lời thời chém ngay".


ấn quan, thời lựa mấy người đương làm Lang trung, Chưởng ấn mà bổ". Hy Tăng dâng sớ lên, Ngài dạy rằng: "Lời tâu ấy hiệp ý ta lắm, giao bộ Lại và bộ Binh phúc lại rồi cho thi hành".

Tháng 6, ban cấp bài ca "Diễn nghĩa ngự chế huấn địch" 10 điều khắp trong ngoài.

Tháng 7, Bố chánh Khánh Hòa là Đoàn Văn Hội lại xin đặt thầy học và lượng trích học điền trong dân gian (mỗi tổng đặt 2, 3 thần hoặc 5, 6 thầy, mỗi thầy cấp ruộng công hoặc ruộng tư 3 mẫu). Quan bộ Lễ xin y cho (đó là theo nghị định về việc hương học năm Tự Đức thứ 1 châm chước mà làm) Ngài dụ rằng: "lúc trước Văn Ông nhà Hán đem văn học trị đất Thục mà dân hóa theo, thế thời chỗ nào không người tài, người nào lại không học, cốt ở thú mục vàhọc thần hay giở đó thôi".

Chánh tổng Trần Văn Y ở tỉnh Hà Tiên khiến người đem đồ sản vật (chiếu bông, mật ong, sáp, nước mắm, cá khô, lông chim) nhờ đạo Phú Yên dâng lên. Ngài dạy rằng: "Lòng dân như thế, thiệt bởi đức trạch Triều đình đã sâu". Ngài nhơn làm bài phú "Nam Kỳ thổ sản".

Tháng 9, Hoàng Tá Viêm và Lê Toán tâu việc đáng làm cả thảy 9 khoản (1. Đắp thành cũ tỉnh Cao Bằng; 2. Lựa người thổ trước bổ làm châu, huyện; 3. Kết tổng đoàn để cứu ứng nhau; 4. Cho tổng đoàn nhóm ở với nhau để phòng giữ cho tiện; 5. Thúc lính các bảo, đặt chức Bảo mục, khiến ở thường canh giữ; 6. Mộ lính thổ sung vào cơ vệ, để ở tỉnh chực sai phái; 7. Các tỉnh ở chốn biên nên mua lúa của dân trữ lại; 8. Lựa người Bắc Kỳ và người Thanh, Nghệ sung bổ văn võ ấn quan và phủ, huyện hiện khuyết ở các tỉnh ngoài biên; 9. Các đàng thủy bộ quan yếu nên xét hỏi người Tàu ai có giấy thông hành mới cho qua). Ngài chuẩn cho làm.
Tháng 11, giặc Hoàng Tề quán thông với đảng giặc Tô Tứ dụ bọn giặc biển người Tàu hơn 70 chiếc thuyền đến đậu vũng Cát Bà (về Hải phận Nghiêu Phong) tràn vào trong sông cướp hại nhiều lần. Ngài sai đem tàu hỏa hiệu Mẫn Thỏa, hiệu Đằng Huy và tàu đồng hiệu Tịnh Hải, hiệu Tường Nhạn kéo tới hội tiễu.
Cho bán ruộng đất công lưu hoang làm ruộng đất tư, để lấy tiền trợ quân phí. Đó là theo lời quan Thị sư Lê Toán nghị tâu. (Ngài chuẩn từ nay phàm các tỉnh ngoài Bắc Kỳ, có ruộng đất công và các hạng đất lưu hoang, không nệ người trong làng hoặc người làng khác huyện khác, như có ai tình nguyện mua mà khẩn được bao nhiêu, chiếu mỗi mẫu giá là mấy mà nạp tiền, việc xong rồi sẽ phái khám, quan tỉnh cho bằng, biên vào điền bộ, y theo ngạch cũ đánh thuế, chiếu theo chỗ khó dễ hạn cho mấy năm thành ruộng khởi thâu thuế, biên theo hạng ruộng tư để làm của mình. Hễ mua ruộng đã thành thuộc mỗi mẫu giá 120 quan tiền, ruộng hoang để khẩn giá 60 quan, khó khẩn giá 30 quan; từ Thanh Hóa trở vào Nam, đất nhiều chỗ xấu, giá đều đều chước giảm một nữa).

Tháng 12, tỉnh Bắc Ninh động đất, tiếng kêu như sấm.

Đảng giặc nhiễu hại phủ Từ Sơn, lãnh Tri phủ Trương Quang Đản đem binh dõng đi đánh, bắt được tướng giặc tên Chích. Ngài cho đặc cách thưởng thăng Tu soạn.

Năm Nhâm Thân thứ XXV (1872), tháng giêng, cấp tiền gạo quần áo và bổ trợ buồm lái cho tàu nước Lưu Cầu bị gió xiêu đến hải phận nước ta, rồi phái tàu hỏa đưa quan tỉnh Quảng Đông đặng về nước nó cho tiện.

Xử trí lưu dân châu Khâm nước Tàu (hễ đứa lương thiện cho ở làm thuê, đứa bất lương đuổi về nguyên quán).

Ngài ngự tới làng Kim Đôi và làng Vân Trình thuộc phủ Thừa Thiên, thấy đàng sông chảy thẳng ra tỉnh Quảng Trị, trong sông Vĩnh Định nhiều chỗ bồi cạn, thuyền bè qua lại không tiện, bên bờ sông ruộng đất thời khô. Ngài truyền quan tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên mở đào cho rộng.
Tháng 2, Ông Ích Khiêm, Nguyễn Di đánh phá sào huyệt giặc tại Quán Tư, lấy lại huyện lỵ Trấn An. Ngài khen, ban thưởng.

Đạo quân thứ Hải Dương đánh giặc ở xứ Thanh Lâm, bắn chết giặc Hoàng Tề. Quan Thị sư Lê Toán và các quan ở quân thứ khi trước bị giáng nay đều cho khai phục.

Tháng 3, Tham tán Ông Ích Khiêm vẽ địa đồ tỉnh Hưng Hóa, giáp 2 tỉnh Sơn Tây và Tuyên Quang dâng lên. Ngài xem rồi dạy rằng: "nay tính mưu đánh giặc, nên trước tỉnh Hưng, sau tới tỉnh Tuyên".

Quan Pháp soái ở Gia Định là Du Bi Lê về Tây, quan Quyền Soái Đa (hay là Bờ Ra) tới thay.

Các tỉnh Sơn Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương dân đói xiêu tán, Ngài dạy quan tỉnh lo việc chẩn cấp.
Tháng 4, Ngài sắc các quan địa phương miền duyên hải từ nay về sau phải nghiêm sức các cửa tấn trong thuộc hạt hết lòng tra xét dân trong hạt không được dỗ đàn bà con gái đem bán cho thuyền nước Tàu.
Đạo quân thứ Bắc Ninh nã được tên Ngụy Tịch, đóng cũi giải về Kinh. Từ quan Tổng đốc trở xuống đều được thưởng.

Tháng 6, bờ đê mới ở huyện Văn Giang thuộc tỉnh Bắc Ninh bị lở hơn 20 trượng.
Quan quyền soái Đa ở Gia Định đưa thơ cho Thương bạc xin sao cấp luật lệ để các quan tra án trong hạt ấy coi đó làm phép. Ngài nghĩ các nha trong 6 tỉnh Nam Kỳ đã có luật lệ để lại, không phải sao biên làm gì, truyền làm thơ đáp lại.

Quản đạo Phú Yên là Lê Văn Phổ tâu rằng: "Tổng lý và các chủ ruộng huyện Đồng Xuân xin mỗi mẫu ruộng nạp 2 thăng lúa, mỗi mẫu thổ nạp 2 tiền, làm huyện thương thâu trữ lại, để phòng khi phát chẩn". Ngài cho.

Tháng 7, Ngài khiến Nguyễn Tri Phương sung Tuyên sát đổng sức đại thần thẳng tới quân thứ Sơn Tây và Hải Dương truyền nhóm các quan, từ Thống đốc Hoàng Tá Viêm đến Đổng vận, Thương tá, sắp hàng quỳ trước bàn án, tuyên lời dụ răn dạy khiến thêm gắng sức, cốt làm sao cho trong tiết thu, đông dẹp yên hết giặc.

Đốc binh Nghệ An là Tạ Hiên đánh phá giặc Tàu tại sông Cam Giang. Nghe tin thắng trận, Ngài thưởng thăng Phó quản cơ.

Tàu Đằng Huy hư, Ngài khiến đem qua Hương Cảng tu bổ lại.

Tháng 9, mua tàu hỏa nước Phổ, đặt tên là tàu Viễn Thông (Lúc ấy nước Phổ qua Hương Cảng, quan Lãnh sự Măng Cờ đưa thơ qua Thương Bạc ý muốn thông hòa hảo với nước ta. Ngài khiến Thị lang Nguyễn Chánh qua Hương Cảng thương thuyết, đến đây mua tàu đem về).
Khi ấy, các tỉnh ngoài Bắc Kỳ đều điều trần vê việc đàng đê, nhưng ý kiến khác nhau: (Hà Nội xin nhơn đê cũ sửa đắp, đợi sau sẽ tính dời bờ đê cách bờ sông vài trăm dặm. Sơn Tây xin miền thượng du thời sửa đắp đê cũ, nhưng trước phải mở thông mấy chỗ dòng nước hạ du, đợi trong 2,3 năm sẽ lần thôi. Nam Định xin buộc đồ máy vào tàu hỏa và tàu đồng, đem vét đào cửa biển để cho nước chảy thông, đợi năm sau sẽ lần lần thôi đắp đê. Hưng Yên xin nhơn vũ đắp thêm. Bắc Ninh xin tùy thế bồi đắp, ở miền hạ lưu các đàng sông có chỗ nào ngăn lấp thời nhơn đàng cũ mở đào thêm ra để nước chảy cho thông, không nên mở đàng mới nữa). Ngài nghĩ lời tỉnh Bắc Ninh tâu xin tiện hơn, y cho làm.
Tháng 10, chuẩn cho các tỉnh đạo xét các viên biền binh dõng mấy lâu đánh giặc và chở vật hạng ra đàng biển, hoặc bị chết trận, chết bệnh, chết chìm, người nào còn cha mẹ và ông nội, bà nội, thời mỗi tháng quan sở tại phải cấp mỗi người 1 quan tiền và 1 phương gạo; đến khi chết, lại tuỳ bậc lương cấp tiền và vải. (Cha mẹ thời cấp 5 quan tiền, ông nội, bà nội 3 quan tiền, còn vải đều mỗi người nửa cây). Con trẻ mồ côi từ 15 tuổi trở xuống, mỗi đứa mỗi tháng cấp 5 tiền và nửa phương gạo.
Khiến Nghệ An đúc súng thần công 500 khẩu, súng điểu thương 2.000 khẩu.

Tri phủ Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định là Tôn Huy Diệm và Binh dõng Quản cơ Nguyễn Đức Thận đốc khẩn ruộng thôn Định Bình và thôn Thiết Đính thành điền được 114 mẫu. Ngài cho phân hạng thưởng cấp.

Tháng 11, người Đại Pháp là Đồ Phổ Nghĩa đi 3 chiếc tàu đến cửa Cấm thuộc tỉnh Hải Dương xin mượn đàng qua tỉnh Vân Nam. (3 chiếc tàu ấy tự xưng là hiệu tàu Đô Phối; chủ tàu là một người tự xưng Lãnh sự nước Pháp tên Đồ Phổ Nghĩa, một người tự xưng là người nước Anh mà làm quan võ nước Tàu tên Kiều Nhĩ Trì, một người tự xưng Tri phủ nước Tàu tên Lý Ngọc Trì). Ngài khiến tư tờ qua Lưỡng Quảng nhờ tư hỏi Vân Nam, chờ trả lời lại sẽ hay.
Tàu Đồ Phổ Nghĩa từ Hải Dương qua Bắc Ninh, đến Hà Nội, phát súng, rồi thuê thuyền qua Vân Nam. Thự Tổng đốc Bùi Thức Kiến đem việc thuê tàu tâu lên. Ngài dụ các quan quân thứ từ Hà Nội trở lên các tỉnh tuỳ cơ ứng tiếp, tuân thể lời dụ mà làm cho khéo.

Chẩn cấp cho người nước Anh Cát Lợi đi tàu bị gió tên là Xa Le.
Tháng 12, Cơ mật và Thương bạc xin mở sở buôn bán ở 3 cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, và Đồ Sơn. Đình thần bàn mở cuộc buôn bán có 5 điều lợi mà cũng có 8 điều khó, chưa nên làm vội; việc ấy bèn thôi. (5 điều lợi: 1. Nhóm dân ở bờ biển, nhơn đó bền vững bờ cõi ta; 2. Chứa của ở nơi dân, ngụ binh ở việc buôn; 3. Hãng buôn dọc bờ biển, tin tức thông nhau, đông tây tiếp ứng, ngăn được giặc biển; 4. Hãng buôn lập ra, thuyền chiến phải nhóm tại đó, đã đuổi được giặc cũng bảo hộ được tàu vận tải nữa; 5. Ta với ngoại quốc thông thương, chức các hàng hóa, lâu ngày tin nhau, nhơn đó màxét được tình trạng các nươc. -8 điều khó: 1. Mở hãng buôn, nhóm kẻ giàu, tất phải có thành quách, súng ống, binh bộ, tàu thủy, mới nương cậy được, mà ta nay của hết sức cùng, chi phí không đủ; 2. Binh thủy và binh bộ phòng ngoài biển, phải cấp lương hậu hơn cách thường, nay lính theo đánh giặc lương ăn như lệ cũ, thành ra kẻ hậu người bạc sanh điều ta oán; 3. Phải cần người tài giỏi trí cao quản đốc việc buôn, mới có thể phủ ủy các người buôn xa và ứng tiếp các nước; 4. gắng gượng mở hàng, linh tinh từng phố, sao cho bền vững được; 5. Vượt biển buôn bán phải xuất tiền công bổn thời dân mới vui theo, mà bây giờ nhiều việc, không nên phí của kho và ép dân; 6. Chức của nơi xa xôi, chắc chắn là dân giàu sợ không tới, chỉ những nhà buôn nho nhỏ chịu mở cửa hàng, thời lại làm mồi cho giặc; 7. Nhóm dân ở bờ biển mà không người trọng tấn để giữ trị, nếu có người khác tới giành, ở trong bọn buôn chắc có kẻ tỏ tình với giặc, để lo cho nhà nước về sau; 8. Lâu nay ta chưa lập cuộc buôn, mà còn có kẻ chở trộm đồ quân trang vào sông và đem lén đồ cần thiết cấm ra biển, huống chi nay mở cuộc buôn tụ hội người các xứ, thời chứa kẻ gian dối sẽ gây họa chiến tranh).

Năm Quý Dậu thứ XXVI (1879), tháng giêng, quyền Pháp soái Đa về Tây, quan Soái cũ Du Bi Lê tới thay.
Ngài dụ khiến các đại thần trong ngoài xét kỹ nếu có người nào học thức tài trì, hiểu hết tình thế công việc, chữ nghĩa và tiếng nói ngoại quốc, hoặc bàn nói, hoặc ra làm, có thể cáng đáng được việc lúc bấy giờ, thời phải tâu lên.

Tháng 2, khiến sứ qua Tàu dâng đồ cống (Phan Sĩ Thuộc, Hà Văn Quan, Nguyễn Tu sung sứ bộ). Ngài nghĩ một dải duyên biển ngoài Bắc Kỳ tiếp giáp với Tàu, mấy lâu quan quân Tàu qua ta không chịu hết sức giúp đỡ đánh giặc. Ngài khiến làm biểu văn nói việc phía Bắc, giao cho bọn Sĩ Thuộc đệ tâu vua Tàu.
Tháng 3, khiến quan quân thứ vẽ toàn bộ giáp giới bốn bên xứ Tam Tuyên (Tuyên Quang, Hưng Hóa, Sơn Tây) dâng lên. Trong đồ bản ấy phải ghi rõ chổ phủ, huyện, châu, tổng, đồn quân; với chỗ giặc ở, đàng núi, sông cho rõ.

Tháng 5, mới định ngạch thuế quế châu Quan Hóa thuộc tỉnh Thanh. (Quế thượng hạng 1 cân, nhứt hạng 1 cân, nhị hạng 2 cân, tam hạng 3 cân).

Quan Soái Pháp đưa thơ xin lập ước mới, ép ra nhượng tỉnh Vĩnh Long, Hà Tiên và An Giang. Đình thần bàn xin cho sứ qua Tây hỏi cho rõ, trở về sẽ hay. Ngài cho phải, mới đòi bọn Lê Toán, Nguyễn Văn Tường, Trần Hy Tăng về Kinh hậu phái.

Tháng 6, lại định lệ "cấm nói quan lại quân binh, chưa từng nói các danh sắc. Đến đây lại định: hễ Cử nhơn, Tú tài, học trò có hút, thời cho hạn trong một năm phải chừa ngay, ai không tuân thời tước tịch bắt chịu xâu thuế, học trò không được dự thi khóa nữa).

Cho Lê Toán, Nguyễn Văn Tường, và Nguyễn Tăng Doãn sung sứ bộ qua Tây; nhưng trước phải qua Gia Định cùng quan Pháp soái Du Bi Lê hội định hòa ước.

Tháng 6 nhuần, tàu Đồ Phổ Nghĩa ở Hà Nội đã lâu, quyết ý thông thương; vừa gặp quan tỉnh Nghệ An là Tôn Thất Triệt được thơ Phổ Nghĩa trả lời cho Giám mục Hậu nói rằng: "hiệp vốn mở sự buôn bán, tự Bắc Kỳ đến Vân Nam" Triệt liền dịch thơ ấy tâu lên. Ngài khiến sao thơ ấy giao cho Nguyễn Tri Phương và các tỉnh Bắc Kỳ hết lòng phòng bị, rồi tàu ấy chạy lên thượng du tỉnh Hưng Hóa.

Tháng 7, Cơ mật tâu rằng: "tàu Từ Phổ Nghĩa từ mùa đông năm ngoái chạy tới Hà Nội, bởi bọn khách buôn Bành Lợi Ký và Quan Tá Đình mưu lợi làm võ dực cho nó, mấy lâu nay ta đã gởi thơ cho quan Pháp soái và tư di cho quan Lưỡng Quảng xử trí. nay xin sắc cho Khâm mạng Nguyễn Tri Phương xét bọn Bành Lợi Ký quả thiệt đồng đảng, liền xiềng lại giao tỉnh Sơn Tây nghiêm cấm, thời Đồ Phổ Nghĩa không người chỉ dẫn, may bớt việc chăng?". Ngài dạy giao Nguyễn Tri Phương xét kỹ mà làm cho phải.

Tháng 8, Nguyễn Tri Phương ủy Võ Đàng mời Đồ Phổ Nghĩa tới công quán hội nghị, Phổ Nghĩa đi khỏi, Lý Ngọc Trì bị bệnh, thuộc viên ở trong tàu là bọn Uông Sư Gia, Hà Sần thay mặt tới hội. Võ Đàng nói: "Đồ quân khí lệ phải triệt để lại, các ông bằng lòng. Việc ây tâu lên, Ngài quở quan Khâm mạng không được khiêu khích sanh sự.

Khiến Binh bộ Tham tri Phan Đình Bình sung Khâm phái ra Hà Nội hiệp đồng Nguyễn Tri Phương xử trí việc Đồ Phổ Nghĩa.

Tàu Đồ Phổ Nghĩa chở súng ống và gạo muối lên Vân Nam, rồi chạy đếen Hạ Hòa thuộc tỉnh Sơn Tây.

Gần đây quan Pháp soái có đưa thơ nói rằng ông ấy ủy phái một viên Pháp quan đem 60 người chạy tàu ra Bắc Kỳ bảo hiệu tàu Đô Phối (là tàu Đồ Phổ Nghĩa) lui ra và bà định điều lệ thông thương. Đến đây, nước Pháp sai quan Ba An Nghiệp (Francis Garnier) đi tàu tới cửa Đà Nẵng, rồi chạy ra bến Hà Nội.

Quan Khâm mạng Nguyễn Minh Phương, Bố chánh Võ Đàng, Lãnh binh Nguyễn Đăng Nghiễm qua trú quán đón rước. Ngài khiến quyền tạm dọn dẹp nơi trường thi để khoản đãi An Nghiệp.

Quan Năm nước Pháp đem 5 chiếc tàu hỏa tiếp đến Đồ Sơn nói rằng: "1 chiếc chạy lên Hà Nội, còn 4 chiếc rồi cũng tới đó". Bọn Trần Tiễn Thành tâu rằng: "nên giao cho Khâm mạng trách An Nghiệp rằng: quý quốc khi mới tới chỉ vì việc đuổi tàu Đồ Phổ Nghĩa, nếu tàu ấy muốn đi tới buôn, hãy chờ điều ước xong mới tiện; quý phái nên sức gấp cho tàu ấy lui ra, như trái phép cấm, làm điều cướp hại, thời xin quý phái đuổi bọn ấy đi cho rõ phép công". Ngài nghe theo.

Tháng 10, quan Pháp là An Nghiệp đánh hãm thành Hà Nội. Khi trước An Nghiệp muốn mau mở việc buôn, thường bị quan ta ngăn trở (Khâm mạng, Khâm phái và quan tỉnh), không bằng lòng, mới dự định hòa ước (trong tờ ước nói việc thông thương) giao tỉnh niêm yết, quan ta đáp lại rằng: "chưa có Triều mạng, không dám thiện hành". An Nghiệp giận, mùng 1 tháng ấy thình lình đánh tỉnh thành, Khâm mạng Nguyễn Tri Phương với con là Phò mã Nguyễn Lâm (Lâm ra thăm cha) giữ của đông nam, binh Pháp phá cửa ấy trước, Lâm bị đạn chết, Tri Phương bị thương, thành liền mất. Việc tâu lên, Ngài khiến giao lại thành Hà Nội mới tiện định ước. Vừa gặp báo rằng An Nghiệp xin đặt quan mới làm việc tỉnh Hà Nội, để tiện bàn việc thông thương. Ngài giao đình thần lựa người giỏi đặt làm quan tỉnh để coi việc, còn quan tỉnh Hà Nội cũ và quan Khâm mạng, Khâm phái, không kể người còn kẻ mất, đều phải cách chức tra cứu; lại khiến Trần Đình Túc, Trương Gia Hội cùng Giám mục Bình, Linh mục Đăng qua tỉnh ấy hội nghị. Nhưng binh Đại Pháp đã đặt quan trị tỉnh Hà Nội và làm lời hịch báo các tỉnh cả thảy 3 khoản: 1. Triệt lính giữ cửa ải bến tàu; 2. Nhổ cừ dưới sông; 3 Yết điều thông thương. Rồi lại toan mưu tới lấy các tỉnh. Ngày 15, đánh lấy tỉnh Hải Dương; ngày 16, đánh lấy tỉnh Ninh Bình; ngày 21, hãm tỉnh Nam Định; 4 tỉnh nối nhau thất thủ. Ngài khiến Hoàng Tá Viêm kiêm sung Tiết chế Bắc Kỳ quân vụ, thương đốc việc phòng giữ các tỉnh chờ coi Đình Túc thương thuyết thế nào.

Phát giao sắc phong cho Sứ thần Lê Toán làm quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường làm Phó sắc ấn phát đến Gia Định, quan Pháp soái nghe tin liền tới mừng. Sứ thần thương rằng: "điều ước mới nay có thể định được, nhưng xin xử trí việc ngoài Bắc cho mau xong, sẽ định điều ước". Quan Soái liền chạy giấy sức An Nghiệp lui quân để quân ta vào thành làm việc. Lại thương nhờ Nguyễn Văn Tường dẫn quan Thống sát Hoác Đạo Sanh (Philastre) đi tàu hỏa đến cử Đà Nẵng. Khi đến Kinh, Ngài khiến Nguyễn Văn Tường sung Khâm sai đại thần, hiệp đồng Hoắc Đạo Sinh hẹn đến ngày 1 tháng 6 lại tới Đà Nẵng đi tàu ra Hà Nội thương thuyết; nhưng khiến làm thơ báo cho quan Soái biết, và làm thơ giao cho quan Thống sát cứ đó mà làm.

Ngài nghĩ Kinh sư là nơi căn bổn, từ Kinh Thành, Hoàng thành, đến Hải Phòng (là cửa Thuận) khiến đều phải hết lòng phòng giữ cho được mười phần vững bền.
Tháng 11, quan Tổng đốc mới Hà Ninh là Trần Đình Túc tuân lời chỉ chuẩn trước đương bệng gắng đi, cùng quan Tuần phủ mới là Nguyễn Trọng Hiệp đến thành Hà Nội; quan Án mới là Trương Gia Hội, Lãnh binh Hoàng Đồn Điển và Giám mục Bình, Linh mục Đăng cũng đều tới một lần. An Nghiệp rước vào thành cùng nhau thương thuyết.
Nguyên Hiệp tá đại học sĩ sung Khâm mạng đại thần bị cách Nguyễn Tri Phương mất ở nhà trú thự thành Hà Nội. Trước nhơn bị thương ở tại đó, đến đây không chịu ăn uống, người Đại Pháp đưa cháo và thuốc, ông đều phun ra cả, rồi mất.

Đạo quân thứ đồn Hương Canh lén đánh giết An Nghiệp ở ngoài La Thành. Việc tâu lên, Ngài nghĩ gần đây thương thuyết đã gần thành, toàn cuộc xử trí không phải cậy bọn quân Lưu Vĩnh Phúc mà làm xong được, nên khiến bọn quân ấy về phòng triệt miền thượng du là phải. (Binh đồn Hương Canh tức là quân quan hai biền coi việc, tới thương với Trần Đình Túc rằng: "Xin Đình Túc nghĩ người ta đã thôi đánh, ta đã triệt quân Lưu Vĩnh Phúc về quân thứ giữ bờ cõi, để nghị hòa ước cho tiện. Liền ủy Nguyễn Trọng Hiệp, Trương Gia Hội đến quân thứ diện thương với bọn Hoàng Tá Viêm, Tôn Thất Thuyết, Viêm và Thuyết đều thuận nghe, đóng quân không đánh nữa. Gặp khi quan nước Đại Pháp là quan ba E Mê từ Gia Định tới. (Quan Soái nghe An Nghiệp chết. Sai E Mê đi tàu hỏa tới thay). Bọn Đình Túc hội thương với công E Mê và ông Biên).

Cho Trần Đình Túc vẫn lãnh Tổng đốc Hà Ninh mà sung chức Khâm sai phỏng định thương ước Toàn quyền đại thần, Nguyễn Trọng Hiệp nhưng lãnh Tuần phủ, hội đồng với Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Tường nghị định thương ước.

Khâm sai Nguyễn Văn Tường đi tàu với quan Thống sát Hoắc Đạo Sinh đến cửa Cấm. (Ngày 3 tháng 11 từ Đà Nẵng ra đi, đến ngày 5 tới nơi). Vừa lúc ấy quan Pháp ở Hà Nội đem thơ báo rằng quân ta đánh thành, An Nghiệp với quan Một, quan Hai ra đánh đều bị chết. Hoắc Đạo Sinh và quan dưới tàu đều đập tay tức giận, bảo Văn Tường rằng: "Việc chắc không xong, phải phi báo quan Pháp Soái, không nên ở lâu". Văn Tường thấy đương giận lắm, e hư việc lớn, mới thong thả nói: "Việc lấy Hà Nội, Quý soái đã nói không phải bổn ý; còn như sức binh cả 4 tỉnh cũng mạnh, mà nước tôi cũng không đem ra tranh hoành, thiệt là hai bên đều không trái ý nhau; đến như việc An Nghiệp chết, hoặc tại kẻ trộm cướp nơi khác đến, hoặc tại dân bổn xứ khích giận, việc chưa rõ ràng; huống chi trả thành để mau định ước, là lệnh Quý soái; nhận thành rồi mới nghị hòa, là mạng vua nước tôi; chúng ta chỉ nên cần mạng lệnh ấy; còn như việc Hà Nội giết An Nghiệp, cũng như An Nghiệp giết Tri Phương, đều là việc tình hình không phải chúng ta làm ra, nay chưa từng tới nơi biết việc thế nào, mà chỉ truyền nghe báo khống, không những Quý soái ở xa khó tính trước, mà chúng ta đi chuyến nầy thiệt là phụ chức trách lắm. Chi bằng phi thơ ra Hà Nội đem tàu hỏa nhỏ rước chúng ta tới nơi như nên theo mạng lệnh trước, hội đồng mà làm thời càng hay, hoặc nên hỏi rõ cớ An Nghiệp vì sao mà chết, rồi sẽ báo, vậy chẳng ổn tiện lắm sao?". Hoắc Đạo Sinh muốn đi tàu ấy mà cho chiếc tàu đưa mình ra là hiệu Đát Tờ Gi về Gia Định báo. Văn Tường lại thương rằng: "Tàu quý quốc đã tới lại lui ra, e sĩ dân nghe tin, ắt bắt chước làm như Hà Nội, ai cấm ngăn được, sợ khi sau tổn hại càng lắm, lấy gì thưa lại với quý soái?. Nay nên khiến tàu Đề Ta Gi ra cửa đón triệt giặc biển, còn chiếc tàu Đát Tờ Gi nên cứ chạy luôn tới Hải Phòng, trước giao lại thành Hải Dương, hiểu thị sĩ dân để rõ tình tin thiệt, rồi qua Hà Nội giao hết các tỉnh thành và hỏi việc An Nghiệp, xong sẽ chạy giấy báo cả một lần, mới trọn vẹn". Hoắc Đạo Sinh nghe theo, mới chạy tàu ra Hải Phòng đánh dẹp giặc biển, liền giao lại 4 tỉnh cho quan ta coi trị, quan quân Đại Pháp ra thành lui về ở Hải Phòng, đoàn tàu Đồ Phổ Nghĩa cũng qua đó. Hoắc Đạo Sinh định ngày về, còn việc thương ước thời về Gia Định sẽ định. (Vì Pháp Soái kỳ về Tây gấp quá, nên chi muốn mau vào Gia Định định ước, không được lâu).

Tháng 12, quan Pháp soái định qua đầu năm sau về Tây, phái Lê Na ra thay cho Hoắc Đạo Sinh về và dục Nguyễn Văn Tường đi luôn cho kịp định ước.

Việc nước đã yên, Ngài nhớ đến Nguyễn Tri Phương một nhà tử tiết, truyền quan tỉnh Hà Nội sai dân phu hộ tống quan tài ông Tri Phương và Phò mã Lâm về làng an táng; và tặng Phò mã Lâm hàm Binh bộ Thị lang để khuyên người trung hiếu.

Lúc ấy Khâm sai Nguyễn Văn Tường đi tàu đã về, nhưng vì đau nên trễ, mà đã gần kỳ Pháp soái về Tây. Ngài dụ Sứ thần Lê Toán, Nguyễn Tăng Doãn phải chờ Văn Tường đến thương thuyết định ước sẽ hay; đến như khoản đặt Khâm sứ ở Kinh, thời nên thương với Pháp soái ở trong tờ ước nói rõ các sắp đặt, nhưng đợi các cửa biển ngoài Bắc đặt chức Lãnh sự xong rồi, trong một vài năm nữa tình ý qua lại tin nhau, khi ấy ở Kinh nên đặt Lãnh sự hay là Khâm sứ tùy đó mà làm.

Năm Giáp Tuất thứ XXVII (1874); tháng giêng, chuẩn phong con cháu nhà Lê là Lê Duy Kiến (hiện tháp ở Bình Định) làm Phó quản cơ, Diên Tự Nam, cho đi trạm về Thanh Hóa để chủ tự nhà Lê. Duy Kiến tâu rằng: "năm trước tháp ở Bình Định, chỗ đã yên, nay cho về Thanh được gần tiên tổ, vẫn là muốn lắm, nhưng e hoặc có kẻ nhơn đó sanh sự, lại thêm tội cho tôi. Phụ ơn triều đình châu toàn. Tôi xin ở lại Bình Định để nhờ ơn lâu dài". Ngài cho, nhưng đình việc tập tước và giám tự, còn việc tế tự miếu vua Lê với các đời vua trước, thời thuộc về quốc tế. Rồi chuẩn cho Lê Duy Kiến được tha thuế trọn đời.
Quan Thống soái Hoắc Đạo Sinh với Khâm sai Nguyễn Văn Tường từ Bắc Kỳ đến sứ quán. Ngài sắc các quan Cơ mật, Thương bạc, tới hỏi thăm và ban cho một đạo sắc dụ để tỏ công lao.

Ngài nghĩ Hà Nội ở giữa coi ngó bốn phía, việc quan nhiều lắ, mà Tổng đốc Trần Đình Túc già yếu, cho Bố chánh Bắc Ninh là Phạm Thận Duật thự Tuần phủ Hà Nội để giúp việc.

Hoắc Đạo Sinh và Nguyễn Văn Tường lại vào Gia Định hội đồng Lê Toán cùng Pháp soái định ước.
Nghệ An có bọn Trần Tấn, Đặng Như Mai nhóm đảng làm giặc, rồi đều tan hết. (Hai tên ấy trốn lên trên Mọi, Tấn bị chết, Mai bị bắt).

Hòa ước mới đã thành. Quan soái Du Bi Lê về Tây, Quyền soái Ga Răng tới thay.
Ngài rất lo nghĩ về việc nuôi dân, nhơn coi sách Đại Thanh khâm định khương tế lục (Hiệu Càn Long thứ 4 nhà Thanh, quan Cấp sự trung Nghê Quốc Liển dâng sách Cứu cơ của nguyên Giám sanh Lục Tăng Vũ làm ra; trong sách ấy đầu thời thuật việc cứu cơ đời xưa; thứ thời thuật việc phòng bị trước khi hoang khiểm, việc cần làm đương khi hoang khiểm, việc làm sau khi hoang khiểm; mà sau cùng thời trích lục những điều ước để dễ xem; mỗi khoản trước dẫn kinh sử, sau thêm lời bàn, đại ý đều nói việc cứu dân; vua Tàu đặt tên là "Khương tế lục", 1 bộ 6 quyển). Ngài liền trích việc nào làm được châu điểm tiêu lên, tất cả 116 khoản, khiến sao lục những chỗ có châu điểm chia từng loại làm 3 quyển giao Sứ quán in cấp các bộ, nha, tỉnh, đạo mỗi nơi mỗi bộ (mỗi bộ 3 quyển).

Tăng quan Pháp soái 1 đồng tiền vàng nhứt hạnh (vì Bắc Kỳ nghị hòa đã rồi). Lại nghĩ Giám mục Bình và Linh mục Đăng có giúp đỡ việc ấy nhiều, đều hậu thưởng để đền công lao.

Sắc quan Cơ mật và Thương bạc vẽ 2 bức địa đồ nước ta: 1 bức để ngự lãm, 1 bức đưa cho Pháp soái.
Tháng 2, lãnh Hình bộ Thượng thơ sung như Tây Chánh sứ Lê Toán mất ở Gia Định. Ngài tặng hàm Hiệp tá và ngự chế bài văn điếu, sai Hoàng trưởng tử đến tế. Sau cho Lê Toán liệt tự vào nhà thờ Hiền Lương.
Tháng 3, tướng giặc Trần Quang Cán khởi loạn ở huyện Hương Khê (cán là người huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh).

Man tù tỉnh Quảng Bình là Trương Quang Thủ làm giặc ở Tân Ve mưu đánh thành Hà Tĩnh để cứu thoát tên Nguyễn Huy Điển (tục danh là Tú Khanh).

Viện Cơ mật tâu rằng: "tên Hoàng Anh cướp hại các hạt, binh dõng ở quân thứ Tuyên Quang kể vạn người, không phải thiếu người đánh giặc, thế mà quân thứ Tam Tuyên lại trù nghĩ muốn đòi binh dõng tỉnh Cao, tỉnh Lạng; Hà Nội thời muốn mượn binh thuyền Đại Pháp; tỉnh Lạng Sơn thời tư nói Lưu Ngọc Thành thác từ triệt binh về Tàu; lời chúng nghị phân vân, thiệt là khó tính. Viện tôi trộm nghĩ kế An Biên chỉ có đánh dẹp và vỗ yên mà thôi; nay xin: 1. Truyền Nguyễn Uy phúc thơ cho Lưu Ngọc Thành nói rằng: "nước ta kết hòa với Đại Pháp mới hơn 10 năm, mà quan Pháp soái còn muốn đem binh đánh giặc giúp, ấy là quân giặc thời ai cũng giận; quý Tổng thống trước sau coi việc đó, nay muốn vội triệt binh về, sao gọi là tình nghĩa hai nước ta đã đến trăm ngàn năm nay?. 2-. Truyền tỉnh Hà Nội tư hỏi quan Đại Pháp là Lê Na có ưng giúp ta đánh giặc để thông đàng buôn bán không? Để xem đáp lại thế nào sẽ nghĩ". Ngài chuẩn y.

Tháng 4, Sứ thần Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn dâng 20 tập sách tây. Ngài ban rằng: "Hai người dâng sách ấy thiệt có lòng và có ích; giao viện Cơ mật giữ, dịch cho rõ ràng tấn lãm". (20 tập sách ấy là: 4 tập Khung giang hác vật đồ chí, 3 tập Đại pháp kỳ tăng hiệu, 11 tập Nam Kỳ điều lệ, 1 tập Thuế lệ, 1 tập Binh thuyền).

Khiến thông sức các địa phương từ nay dân Tàu nếu có ai xin ở lại nước ta, hễ số nhiều thời do Bang trưởng ký sổ phát giấy, số ít thời do Lý trưởng nhận thiệt biên riêng ra.

Vì lâu nay số người Tàu kiều ngụ chưa rõ.
Tướng giặc Trần Quang Cán hiệp với giặc mọi Trương Quang Thủ đánh hãm thành Hà Tĩnh, mở giam cho tên Nguyễn Huy Điển, cùng nhau chiếm giữ tỉnh thành. Ngài khiến Lễ bộ Thượng thơ Lê Bá Thận đem binh đánh; lại khiến quan binh đón giữ tỉnh Quảng Bình. Rồi bắt đặng Quang Cán và Huy Điển đều đem chánh pháp.

Tháng 5, Ngài nghĩ Lê Bá Thận cầm binh mấy tháng dùng dằng không tới, mới sai Nguyễn Văn Tường sung Khâm sai ra quân thứ Quảng Bình hiệp cùng Lê Bá Thận trù tính việc phòng tiễu.

Tháng 6, lấy lại thành Hà Tĩnh, Ngài khiến thưởng quân công cho Văn Tường và Bá Thận.
Khiến Hình bộ Thượng thơ Nguyễn Văn Tường, Lại bộ Thị lang Nguyễn Tăng Doãn đều sung giảng định thương ước.
Toàn quyền đại thần Nguyễn Trọng Hiệp lại vào Gia Định, cùng quan Toàn quyền Ga Răng, Du Ly Phi Lang Sa E My Ly hội định thương ước.
Giặc biển Hải Dương là tên khách Công kết đảng vào sông ăn cướp, Án sát Nguyễn Hữu Hoán đem binh cùng với viện binh các tỉnh hiệp đánh; Đại Pháp phái La Đăng đánh giúp, giặc lui chạy ra biển.

Tháng 7, Pháp soái Ga Răng sai Tham tá Sô Ma Rô đem thơ đi với Nguyễn Tăng Doãn đến Kinh nói trong khoản thương ước xin bổ thêm việc mở phố buôn và đặt Lãnh sự ở Hà Nội. Ngài cho. Khi ấy thương ước mới rồi.

Tháng 8, khiến Nguyễn Tăng Doãn làm Khâm phái đem thơ của Pháp soái ra Hải Dương thương thuyến với La Đăng. (Trong thơ nói giúp đánh giặc biển). Rồi liền xét địa thế Hải Dương và ngoài thành Hà Nội lựa chỗ làm nhà để Pháp binh ở.

Nguyễn Văn Tường tâu rằng: "Hà Nội là nơi người Tàu tụ hội buôn bán, như mở chợ chứa đồ hàng hoá ở Ninh Hải và Cấm Giang, lập phố buôn bán làm thành chỗ vui, người Tàu đã ở đó thời người Tây không lẽ bỏ nơi ấy mà tìm nơi khác. Xin mật tư Hà Nội và Nam Định sức khách buôn trong hạt ai có tình nguyện lập phố buôn bán ở cửa biển Ninh Hải, hạn trong 3 tháng do quan tỉnh Hải Dương đầu đơn mà xin lập phố mở chợ từ đồn Ninh Hải trở lên, theo hai bên bờ sông cấm". Lại xin lựa người đổng lý việc buôn. Ngài cho.

Khi trước miền thượng du hạt Tuyên Qung giặc thường khuấy rối,vậy nên miều sông Lô sông Thao đều cấm không cho thuyền bè đi lại. Đến đây Thống đốc Hoàng Tá Viêm tâu xin tha cấm cho thông thương. Ngài dụ rằng: "như quả kh6ong ngại gì thời ch tha cấm". (Nguyên lời Tá Viêm xin tha) Cấm dòng sông Thao mà giao quân Lưu Vĩnh Phúc xem coi; còn dòng sông Lô từ thành Tuyên Quang trở lên, xin cứ cấm nghiêm như cũ. Từ thành trở xuống thời cho thông thương).

Tháng 9, ban cấp bổn hòa ươc và bổn thương ước ra các địa phương.

Khiến Hải Dương Khâm phái Nguyễn Tăng Doãn khám xét chỗ quan Đại Pháp đóng quân ở Hải Phòng hình thể thế nào, giáp giới tỉnh nào, cửa biển nào, xa hay gần; vẽ hết toàn đồ tỉnh ấy và bốn phía tiếp giáp dâng lên ngự lãm.

Tháng 10, cho thự Hộ bộ Thượng thơ Phạm Phú Thứ cải thự Tổng đốc Hải Yên, kiêm sung Tổng lý thương chánh đại thần; cho Khâm phái Hải Dương Nguyễn Tăng Doãn lãnh Tuần phủ Hải Dương; cho lãnh Trị, Bình Tuần phủ Trần Hy Tăng cải lãnh Tuần phủ Hà Nội; phàm việc buôn bán do Tăng Doãn và Hy Tăng phải trình với Phạm Phú Thứ thương thoả mà làm. (Khi ấy Ngài nghĩ việc buôn bán mới làm, các nước nhóm họp chắc nhiều, mà qua lại ứng tiếp sự thể khó khăn, phải được người thông hiểu siêng năng mới mong có lợi mà không tê. Vậy nên Ngài mới sai Tăng Doãn và Hy Tăng sung chức ấy).

Tháng 11, sắc các quan Thương bạc đưa thơ nhờ Đại Pháp soái mua tàu hỏa để đánh giặc biển. Phạm Phú Thứ từ Quảng Nam tới Kinh bái mạng (trước xin về nhà tỉnh thám 1 tuần) sẽ tới Hải Dương cung chức, dâng sớ xin cho Ông Ích Khiêm theo đến tỉnh ấy, quyền cấp cho hàm Tán tương hay là Đốc binh để ủy phái chuộc tội. Ngài cho.

Án định tội các quan tỉnh Nghệ An đã làm rồi. (Vì tên Mai tên Tấn làm giặc).Tổng đốc Tôn Thất Triệt phải tội trượng, phát viễn biên sung quân, ( là tội không khéo xử đến nỗi sanh giặc); Bố chánh Phạm Hy Lượng và Án sát Nguyễn Đôn đều bị tội trượng đồ.

Quyền soái ở Gia Định là Ga Răng về Tây, quan Soái cũ Du Bi Lê tới thay.

Tháng 12, cho đoàn tàu Đồ Phổ Nghĩa chở thuê hàng hóa nước Tàu để lấy lợi làm lộ phí, nhưng phải chiếu lệ nạp thuế.

Mới đặt huyện Minh Hóa ở Quảng Bình (miền thượng du phủ Quảng Trạch có nguồn Kiêm Linh và nguồn Cơ Sa cả thảy 2 nguồn 7 sách, địa thế xa cách, phủ ấy khó coi khắp. Gần đây quan tỉnh xin đem 2 nguồn 7 sách ấy hiệp với mấy tổng thượng du huyện Minh Chánh đặt làm huyện Minh Hóa. Đến bây giờ mới dùng người thổ trước bổ quan).

Lúc ấy sứ bộ là những Phan Sĩ Thuộc từ Tàu về vào tạ (Sĩ Thuộc chưa phục mạng mà đã ghé về thăm nhà, vả lại mua vật hạng nhiều đồ không trúng dụng; Ngài chuẩn đều giáng 1 trật). Ngài hỏi việc nuớc Tàu xử trí các nưóc Âu Châu và chánh sự vua Đồng Trị hay dở, quan ại giỏi không, thế nước thạnh hay suy thế nào? Sĩ Thuộc tâu đủ cả, nhơn dâng ngọc trai và phương thuốc tiên để chưa bệnh đau mắt. (Ngọc trai đem soi ngọn đèn hoặc mặt trời mà thấy trong ngọc có 2 bóng ấy là thiệt, dùng rửa mắt khỏi được khí nhiệt. Phương thuốc tiên nói: Người già đau mắt mù đã lâu, dùng vị Thanh Bì rửa xong vài ngày, sạch bụi trong con mắt, dùng đến hơn trăn ngay, mạng che trong mắt đều tan; phương ấy nhiều người dùng nghiệm lắm).

Lúc ấy quan tỉnh Hải Dương trích những làng bị tàn phá chia làm 2 hạng: hạng thiệt hại lắm và hạng thiệt hại vừa, cộng 126 xã thôn, tâu xin tha thuế và những tiền lâu nay còn thiế. Ngài đã có chỉ chuẩn khoan tha; nhưng ý Ngài còn chưa ưng, liền dụ khiến từ nay phàm các xã thôn trong mấy tỉnh Bắc Kỳ như quả giắc không xâm được và không theo giặc, xét có thiệt trạng, tâu cho tha thuế, để khuyên kẻ hiếu nghĩa; còn xã thôn nào ngày thường có dẫn giặc và theo giặc, dung ẩn cho nhau, đến nỗi bị giặc cướp hại, đều không được tâu xin, để tỏ ý khuyên kẻ lành răn kẻ dữ.
Năm Ất Hợi thứ XXVIII (1875), tháng giêng, khiến bộ Binh tư ra tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình đều vẽ địa đồ các miền thượng du chỗ châu, phủ mọi thổ, đến các nơi tiếp giáp. (Như là giáp sông Khung, Nam Chưởng, Vạn Tượng, Xiêm La, Ai Lao, Tàu ... ), vẽ cho kỹ, chú cho rõ những tên núi sông và đàng xá xa gần, đệ vẽ tấn lãm.

Ban cân, trượng, thước, cho các nha Thương chánh. (Vì trong thương ước có nói: các sở lấy thuế cửa ải và bến tàu đều phải lăn cân, trượng thước bộ Hộ nước ta).

Cho Ông Khích Khiêm quyền cấp Tán tương ra quân thứ Bắc Kỳ đánh giặc. Ngài nghĩ Ông Khích dõng mà không lễ, nhơn rằng: "Người có lễ thời mới được yên, phải hiểu nghĩa lý Thi Thơ mới cho là nho tướng".

Khi trước bộ Lại đem dâng 16 bổn sách tây: Cổ kim võ bị 1 bộ 2 quyển, Tây thơ quốc ngữ luật lệ

1 bộ 2 quyển, Binh thơ tập yếu 1 quyển, Thẩn lao thơ 1 quyển, Chế phá tữ đạn phát hỏa 1 quyển, Kỵ mã pháo thủ luật pháp thơ 1 bộ 4 quyển, Bộ binh luật pháp 1 bộ 2 quyển, Thao luyện kỵ mã binh luật pháp thơ 1 bộ 3 quyển. Ngài khiến bộ Lễ sức bọn Nguyễn Hoằng (Chủ sự ty Hành Nhơnn) phiên dịch. Bọn Nguyễn Hoằng bẩm rằng: "Những bộ sách ấy đều là nói kỹ nghệ cơ xảo, chữ nghĩa khó, không hiểu được, xin giao viện Cơ mật nhận giữ, chờ các người đi học bên Tây về sẽ dịch". Bộ tâu lên , Ngài cho.

Tháng 2, cho nguyên Cần chánh điện đại học sĩ Trương Đăng Quế tùng tự Thế Miếu.
Quan tỉnh Tuyên Quang trước đã đem tình hình trong thuộc hạt 3 châu huyện là: Hàm Yên, Thân Châu, Chiêm Hóa bị giặc phá, dân tan trốn đi các nơi, xin tha thuế mùa hạ năm trước. (Lệ thuế các hạt ấy tiền nạp về mùa hạ, bạc và lúa nạp về mùa đông) với thuế năm trước thiếu lại. Tháng 10 năm ngoái, Ngài đã chuẩn cho tha cả. Đến đây quan tỉnh lại đem tình hình thiệt hại hiện bây giờ (3 huyện châu ấy dân cực khổ không lấy đâu nạp thuế được; vả lại 5 xã về châu Triêm Hóa số đinh điêu háo, hạn tiêu không điền được), xin tha thuế mùa đông năm ngoái, 1.449 hộc lúa, 311 lượng bạc, Ngài gia ân tha cho; nhưng nghĩ quan tỉnh ấy không được việc gì, ngồi xem dân tan thuế thiếu, cũng là khoáng chức lắm. Quan tỉnh ấy là Mai Quý, Ngô Xuân Quỳnh, Tôn Thất Môi cùng các quan huyện châu trong 3 hạt ấy đều phải giáng lưu, khiến thêm gắng sức.

Tháng 3, khiến quan Khâm phái đại thần Nguyễn Văn Tường, Phó khâm phái Phạm Ý cùng quan Chánh Khâm sứ nước Pháp là Ba Lông Bô và Phó Khâm sứ Lê Na giao hòa ước với nhau ở trước Ngọ Môn.

Khiến Quốc tử giám Tế tửu Nguyễn Quang Bích kiểm duyệt sách Khâm định việt sử cương mục. Khiến định 14 khoản sự nghi về việc quan Khâm sứ nước Pháp ở Kinh.

Khiến quan Thương bạc làm thơ đưa cho Pháp soái nói 3 việc: 1. Nhờ Đại Pháp đánh đuổi giặc biển; và nay Bắc Kỳ đói, nhờ sức cho Nam Kỳ chở nhiều gạo ra bán. 2. Lưu Vĩnh Phúc cũng là tôi con trong nước, xin đừng nghi ngại. 3. Tuần phủ tỉnh Quảng Tây có đưa thơ nói chờ Tam Tuyên yên rồi, quân Tàu mới về Vân Nam.

Tháng 4, khiến Lang trung Cao Hữu Sung vào Quảng Nam hội khám tỉnh thành và đàng sông. Khi trước Phạm Phú Thứ nói hạt ấy xây tỉnh thành và đào sông Vĩnh Điện không hiệp phép địa lý, nên người và vật không yên. Sơn Phòng sứ tỉnh Quảng Nam là Nguyễn Tạo dâng sớ xin dời tỉnh thành về địa phận huyện Quế Sơn, hoặc huyện Duy Xuyên; lại xin lấp sông Vĩnh Điện đào sông Ái Nghĩa. Nên Ngài sai Hữu Sung hội khám.

Khiến giải nguyên quyền Tán tương quân thứ Bắc Ninh là Ông Ích Khiêm về Kinh chờ án. (Đến sau Ích Khiêm về Kinh bị chứng điên, rồi cho về nhà).

Mở đàng cảng bãi Vạn Phước, đào cho thông nước để phòng khi lụt (cảng ấy thuộc phía đông bắc huyện Thượng Phước tỉnh Hà Nội).

Khiến các quan và dân ai có phương thuật tài năng cho phép tự tiến.

Tháng 5, người Pháp làm nhà Thương chánh ở Hải Dương, tại làng Gia Viên để cho quan Lãnh sự và quân lính ở.

Lúc trước Cử nhơn tỉnh Bình Thuận là Nguyễn Hữu Huân là Âu Dương Lân hội văn thân 6 tỉnh với người Tàu tụ chúng đến 3.000 người, thường chống cự binh Pháp, cũng có trận được. Bây giờ Pháp soái bắt được giết ngay.
Khiến in tờ hòa ước và thương ước cả thảy 200 bổn, cấp cho Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Nam Định, Hà Nội, Hải Dương để phát cho các thuyền buôn người Tàu.

Làm sở Thương Bạc ở cửa đông nam.

Tháng 6, khiến các tỉnh từ nay thuyền dân trong hạt có qua Nam Trung và thuyền Nam Trung có đến các hạt buôn bán, mỗi năm mấy chiếc, tư về bộ Hộ tâu lên.
Lập nhà thờ Trung hiếu tại Đàng Long phủ Thừa Thiên. Khi ấy Ngài nghĩ Nguyễn Tri Phương (tặng Binh bộ Tả Tham tri) và em là Nguyễn Duy (tặng Binh bộ Tả tham tri) con là Nguyễn Lâm (tặng Binh bộ Tả thị lang), hoặc vì nước bỏ mình, hoặc vì cha tuẫn tiết, trung hiếu tiết nghĩa nhóm về một nhà, họ Bợn1 đời xưa cũng không hơn được, cho nên đặc mạng lập nhà thờ ở làng, tuế thời khiến quan Huyện sở tại đến tế.

Lại định lệ "phái thuyền qua các nước thông thương". Khi trước triều Minh Mạng, Thiệu Trị, thường phái thuyền qua ngoại quốc buôn bán và thám xét. Từ khi ấy đến nay đình bãi, cho nên không rõ việc các nước giao hội. Nên bây giờ Ngài mới sắc các quan Cơ mật, Thương bạc, bộ Hộ, bộ Công, bàn cho thỏa đáng, định sang năm lại làm.
Sứ nước Pháp là ông Lê Na tới Huế, do sở Thương Bạc đệ giao tờ quốc thơ.

Tháng 7, Ngài nghĩ quan phủ Nam Sách (thuộc tỉnh Hải Dương) là Võ Túc vốn có tiếng giỏi xuất sắc hơn các phủ, huyện, giữ lòng không nhiễu hại dân, làm việc siêng năng, cho thưởng thọ Thị độc nhưng lãnh, để khuyên kẻ hết lòng trị dân.
Khiến trong ngoài nghiêm cấm đánh bạc: (Bộ Hình nghị định: nhà oa chủ phải tịch gia sản; kẻ oa chủ ở trong Kinh thành thời bắt tội "trượng bát thập đồ nhị niên"; tội bọn đánh bạc giảm tội oa chủ một bậc, quan dân cũng thế).

Khiến từ Hà Tĩnh ra Bắc thuế ruộng công và ruộng tư y theo lệ thuế từ Quảng Bình vào Nam mà thâu, định sang năm là đầu. (Từ Quảng Bình vào Nam, ruộng công và tư, nhứt đẳng mỗi mẫu nạp 40 thăng lúa, nhị đẳng 30 thăng, tam đẳng 20 thăng. Từ Hà Tĩnh trở ra bắc, ruộng công nhứt đẳng mỗi mẫu nạp 80 thăng lúa, nhị đẳng 56 thăng, tam đẳng 33 thăng; ruộng tư nhứt đẳng 26 thăng, tam đẳng 13 thăng; so với Quảng Bình vào nam, thuế ruộng công nặng quá, mà ruộng tư hơi nhẹ; nên nay lấy thuế cho đều nhau).
Khiến Thương bạc đại thần Nguyễn Văn Tường cùng Khâm sứ Lê Na giao tờ thương ước ở sở Thương Bạc.

Tháng 8, đạo quân thứ Tuyên Quang bắt sống được tướng giặc Hoàng Anh, đem chém rồi đưa đầu rao khắp xứ Bắc Kỳ, bỏ và thùng phát qua Tàu.

Khiến làm thơ đưa qua Lưỡng Quãng Tổng đốc nhờ phái viên đốc đồng với quan ở Châu Khâm mau tới tỉnh Quảng Yên hội với quan Tuần phủ xử trí bọn lưu dân. (Lưu dân nguyên tháp ở Châu Khâm, từ khi qua ở Hải Ninh, cướp giết bình dân, chiếm đoạt ruộng đất).
Tháng 9, định lệ "thưởng bọn nghiệp hộ dệt nhung ở Hà Nội". (Khiến quan tỉnh Hà Nội hiểu sức dân làng Giao Cầu: hễ người nào dệt hàng tinh xảo thời nguyên cấp Tùng cửu phẩm hộ trưởng, cho mộ dân lập thành hộ; xét trong một năm dệt được tinh xảo sẽ thưởng Tùng cửu phẩm, còn hộ phụ tha khỏi binh diêu; nhưng mỗi năm phải nạp thuế mỗi tên 4 thước nhung).

Tháng 10, mới định thuế vải và bông.

Mở mỏ bạc Thạch Lâm thuộc về Cao Bằng.

Hình bộ Thượng thơ Trần Bình tâu về việc bỏ đê (xin thôi đê mà nhưng cựu đắp ngăn các chỗ nước xung phá và đào cho sâu rộng các sông ngoài gần cửa biển). Ngài nghĩ lời tâu rõ ràng, truyền lục giao những tỉnh có đàng đê xét kỹ, có thể làm được không, tâu lên Ngài định. Từ đó quan tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên hội tâu xin làm như thế, nhưng xin đắp đập tại chỗ lở. (Trên từ làng Công Luận huyện Văn Giang, dưới đến làng Hương Trù huyện Đông An, dài hơn 3.800 trượng) để giữ lúa mùa hạ, còn nước lụt mùa thu thời để cho chảy tràn qua. Ngài giao các quan Đình thần duyệt lại. Đình thần tâu rằng: "Đắp đập dài quá, sau chưa chắc vững, xin cứ chỗ đê cũ bị vở từ làng Phi Liệt (thuộc tỉnh Bắc Ninh) đến làng Nhạn Tháp (thuộc tỉnh Hưng Yên), lập thế đắp lại, dài chỉ 70.80 trượng, còn dọc mé

1 Bợn Khổn đời Tấn đương đau gắng ra đánh giặc bị chết, hai con là Chẩn và Hu thấy cha tử trận, liền ra đánh, đều bị hại cả. Vợ Bợn Khổn là Bùi Thị vỗ thây hai con khóc rằng: "cha là trung thần, con là hiếu tử, còn phàn nàn gì"!. ngoài đê dài hơn 600 trượng, thời lấy thêm ống tre đựng đất, hoặc lấy đá đắp vào, ngoài cắm cừ gỗ để giữ chơn đê và đắp mũi hàn để ngăn nước xung vào, thời công trình cũng bớt mà tiện". Ngài cho làm.

Nguyễn Hữu Độ từ Hải Dương về Kinh, vào chầu. (Hữu Độ làm Quản lý Thương chánh và coi việc Hải phòng). Ngài nghĩ Hữu Độ ở ngoài đã lâu, nhơn hỏi việc Bắc Kỳ. Hữu Độ có tâu 3 điều khó làm: 1. Đề chánh, 2. Lưu dân, 3. Thương Chánh. Lại điều trần những việc nên làm và nói ngày sau chắc phải khai khoáng, đến khi ấy xin phái nhiều người siêng năng thạo việc hiệp với Đại Pháp đốc làm, cốt khiến cho ta giữ lấy lợi quyền. Ngài khen phải, cho thăng thư Hường lô tự khanh sung Tham tá Thương bạc sự vụ.

Tháng 11, tàu Đại Pháp ở Hà Nội thẳng qua miền thượng du vẽ địa đồ, rồi qua núi Kim Bôi (gọi là Bến Thị) đào thăm được mỏ vàng. Quan tỉnh sở tại tâu lên, Ngài khiến từ nay tàu Pháp có xin qua nữa, nên thương cho khéo, đừng để họ đi.

Mới định thuế dầu cây hồi ở Lạng Sơn (cây hồi trồng 1 năm trổ bông, 1 năm có trái; giáp giới phủ Bằng Tường bên Tàu trồng thứ Đại Hồi làm dầu bán, nước Tàu được lợi nhiều lắm.
Đặt nha Sơn Phòng ở Hà Nội (sau đổi làm đạo Mỹ Đức).

Tha thuế chở bạc nhập cảng cho những người Tày buôn, để người buôn cho đông và hàng hóa cho nhiều.

Tàu hỏa hiệu Mẫn Thỏa bị vỡ ở tấn Thai Dương (cửa Thuần, thuộc phủ Thừa Thiên).

Khi trước quan Thương bạc tiếp thơ người nước Ý Đại Lợi nói về khoản thông thương ở Địa Trung Hải, quan Thương bạc đã đem việc hỏi quan Sứ Đại Pháp, quan Sứ Đại Pháp nói rằng: "Tên ấy là người làm thuê không biết lai lịch thế nào". Lại tiếp thơ người làm công ở tàu Đồ Phổ Nghĩa tên là Ba Rang xin coi giúp việc tàu hỏa cho ta, quan Thương bạc hỏi quan Pháp sứ nếu co chịu kết nhận thời ta mới thuê". Quan Thương bạc đem việc tâu lên, Ngài phê rằng: "Nước ta giao tiếp thấy nghe chưa rộng, nên phải người ta ngăn chế; ta vốn không muốn người ngoài đến, cũng như người các nước muốn đến mà lại bị kẻ khác ngăn trở đó thôi".

Lại đổi 3 đạo Quảng Trị, Phú Yên, Hà Tĩnh làm tỉnh. (3 hạt ấy triều Minh Mạng đã cải trấn làm tỉnh, đến triều Tự Đức năm đầu, xét các tỉnh ấy ít việc, lại cải tỉnh làm đạo, quyền phép đã khinh, kiềm chế lại khó; đến đây đình thần bàn xin như cựu cải làm tỉnh, Ngài cho).

Năm Bính Tý thứ XXIX (1876), tháng giêng, Hưng Yên Tuần phủ Nguyễn Đức Đậu tâu ngạch thuế ruộng mới định đó, xin khoan cho 3 năm sẽ thi hành. Ngài không cho, giáng Đức Đạt 2 cấp lưu. Rồi Đức Đạt cáo bệnh.

Tháng 2, Pháp soái ở Gia Định là Du Bi Lê về Tây, quyền Soái Bô Giăng đến thay.

Lập đồn ở Cù Lao Cát Bà thuộc tỉnh Quảng Yên (Cát Bà là nơi hình thắng, làm đồn ở chỗ cao trông bốn phía phòng giữ được, lại có binh Đại Pháp giữ giúp, tiếp ứng cùng nhau).

Cho đem 2 chiếc tàu hỏa hiệu Thuận Thiên và hiệu Đằng Huy đi tuần tiễu biển Nam và biển Bắc (vì giặc biển thường cướp thuyền buôn, thuyền tải).

Tháng 3, Lãnh sự Đại Pháp ở Hải Dương xin qua huyện Đông Triều và tỉnh Quảng Yên để tìm mỏ than. Ngài cho.

Đắp đê giữ nước mặn tại huyện Giao Thủy dài hơn 3.000 trượng. Lại lấp cửa sông Ngư Dũng (về huyện Tiền Hải) để ngăn nước mặn, và mở cổng ở phía bắc nơi Long Hầu để tiêu nước ứ.

Trích huyện Phong Dinh và huyện Ý Yên cải thuộc tỉnh Ninh Bình (1 huyện ấy nguyên thuộc Nam Định, đến đây xét địa thế liền với Ninh Bình, nên trích về đó, do phủ Yên Khánh kiêm lý).

Cho tất cả các hạt xét kỹ các hạng tù sung quân và phát lưu, có đứa nào nên tha cho đi khai khẩn, thời đều giao cho Sơn Phòng Điển nông sứ ở các tỉnh gần quanh, phân tháp cho đi khẩn ruộng.


Tha cấm "ra biển đi buôn".
Đào sông Ba Sát ở Nam Định (vì nước ứ lại ruộng).

Khiến thuê người đóng tàu hỏa để chuyên chở; còn thuyền dân cho về đi buôn, đánh thêm thuế. Tháng 4, cho y quan Khâm sứ Lê Na làm Sứ quán ở phía nam sông Hương Giang, ngoài Kinh thành. (Bốn bên vừa 6 mẫu 6 hào 14 thước 6 tấc).
Đại Pháp đưa thơ xin ủy quan Lãnh sự Hà Nội qua xét miền thượng du. Ngài cho.

Tháng 5, khiến các địa phương sửa sang phong tục; lại răn cấm những thói tệ như bọn đồng bóng, thầy bói, và thói dâm loạn, xa xỉ.
Tháng 5 nhuận, khiến Thương bạc Tham tá Nguyễn Hữu Độ vào Gia Định nhận chiếc tàu trận của Đại Pháp tặng hảo. (Khi ấy Đại Pháp tặng chiếc tàu máy và súng ống, thuốc đạn, hiện ở Gia Định, xin ta phái quan tới nhận).

Quyền Pháp Soái ở Gia Định là Bô Giăng về Tây, quan Soái cũ Du Bi Lê tới thay. Tháng 6, khiến Bùi Ân Niên, Lâm Hoằng, Lê Cát sung Sứ bô qua Tàu dâng đồ cống. Tháng 7, phủ Thừa Thiên có bệnh dịch, ai đau thời cho thuốc, ai chết thời cho tiều tuất. Tàu hỏa hiệu Đằng Huy mắc cạn, chìm vỡ tại Vũ Áng thuộc hải phận Hà Tĩnh.

Tháng 8, lãnh Sơn phòng Dinh điền sứ tỉnh Quảng Nam là Nguyễn Tạo dâng sớ xin đào sông Ái Nghĩa, lấp sông Vĩnh Điện. Ngài khiến quan Nội các là Nguyễn Thuật duyệt lại; Thuật tâu xin theo như lời quan Khâm phái Cao Hữu Sung năm ngoái đi khám về có xin: "Trước hãy đào xứ Tam Bào thuộc sông Ái Nghĩa, để cho nước thượng lưu chảy bớt về sông Cẩm Lệ; lại đào một đoạn cảng ở làng Cẩm Lậu và làng Thi Lai cho nước chảy thẳng về sông Chợ Củi; lượng đắp 2 đoạn mũi hàn để chia thế nước và cho xoi cát bồi lên". Như thế thời tốn công không bao nhiêu; còn như sông Vĩnh Điện thời chờ bốn năm năm sau bồi cát bồi lắp, cửa sông cạn lần, rồi sẽ lấp, mới có thể thành công được. Ngài khen phải.
Tháng 9, Lãnh sự Pháp ở Hà Nội là Kê La Đích định ngày qua sông Thao xem đàng sông thông thương. Ngài khiến đưa thơ qua Quảng Tây để cho biết trước mà liệu.

Đặt tên 5 chiếc tàu hỏa của nước Pháp tặng hảo: 1. Lợi Tải, 2. Lợi Tế; 3. Lợi Đạt, 4. Lợi Dụng, 5. Lợi Phiếm. Sau Ngài ngự chế bài ký "Ngũ lợi thuyền".

Lại định lệ "Bình dân kêu điện": Phàm bình dân và giáo dân có sự gì oan ức, trước phải do tổng lý và huyện nha mà kêu; nếu xử không minh mới được tới phủ, tỉnh mà kêu; phủ và tỉnh cũng còn xử chưa minh, thời cho niêm đơn tới kêu tòa Tam pháp; như việc khống hay là không tới quan sở tại mà tới kêu nơi khác, thời chiếu luật "Việt khống" trị tội; nếu nó đã kêu mà quan trên không minh xử cho, thời chiếu luật "Cáo trạng bất thọ lý" mà xử phân các quan. Đến Giáo, Huấn, Giám mục, Linh mục đi kiện thế hay là xin việc giúp cho ai, thời chiếu luật "Giáo tòa từ tụng" và luật "Thuyết sự", luật "Thính tụng hồi tỵ" mà nghĩ xử. Như phạm mấy điều trên đó, thời đã chiếu bổn luật ấy mà lại gia đẳng làm tội.

Khiến trong ngoài tìm thầy thuốc hay. (Không kỳ quan, lại, sĩ, dân xa hay gần, đàn ông hay đàn bàn, người nào chữa được bệnh đau mắt và làm thuôc cầu tự mà chắc khiến hiệu, thời thưởng cho chức quan tam phẩm và cho 5.000 lượng bạc).
Phái Lại bộ Lang trung Nguyễn Hữu Thanh vào tỉnh Quảng Nam thám xét các mỏ vàng, bạc, đồng, sắt.

Lãnh sự Đại Pháp đến cửa Thi Nại (Quy Nhơn) thuộc tỉnh Bình Định lập sở Thương Chánh.
Đặt thêm huyện Đông Anh, thuộc phủ Từ Sơn. Vì khi ấy bọn giặc ở miền thượng du tỉnh Bắc Ninh nhóm họp, nên đặt thêm huyện ấy để phòng giữ.
Khiến quan tỉnh Hải Dương và tỉnh Quảng Yên khu xử lưu dân làng Hà Cối.
Tháng 10, cho Tả tham tri bộ Lại là Phạm Thận Duật sung Khâm sai kinh lý hà đề sứ, (Đến tháng 8 năm thứ 31, Thận Duật tâu rằng: "liệu làm không nổi", Ngài mới dụ bãi nha Đề chánh).

Quyền Khâm sứ Hoắc Đạo Sinh đến ở Kinh, (vì Lê Na đau về Tây).
Mới đánh thuế cánh kiến và hoàng thảo ở Nghệ An (hoàng thảo tục danh thạnh hộc, là vị thuốc
Tháng 11, Hoắc Đạo Sinh muốn học sách nho, đưa thơ qua Thương bạc xin rước thầy dạy. Ngài cho thuộc viên nha Thương bạc là Cao Hữu Trung (Cử nhơn) qua Sứ quán ở dạy học; lại tặng những đồ dùng về việc học như: nghiên mực, giá, gác bút v.v... để khuyên gắng học.

Tháng 12, đào các sông ở làng Ái Nghĩa, Cẩm Lậu, Thi Lai, thuộc tỉnh Quảng Nam. Tha thuế các làng bị tàn phá thuộc tỉnh Nghệ An.

Năm Đinh Sửu thứ XXX (1877), tháng giên, Ngài ban dụ khuyên răn các thần công trong ngoài.
Tháng 2, khiến đình thần hội nghị cho rõ phép "thẩm bình". Đình thần tâu xin: "từ nay phàm các nha coi việc hình, mỗi kỳ thẩm tù phạm nên chiếu theo lệ cũ chia làm 3 sổ: 1. Sổ Tình chơn. 2. Sổ Hoãn quyết, 3. Sổ Căng nghi; hễ mưu sát, cố sát, hung cường, cố phạm1 mà tang chứng đã xác thiệt, hoặc cướp trộm hộ chung2 làm hại đã nhiều lần, hoặc gian hoạt vũ văn3 xâm của kho nhiều, các khoản ấy tình tội không còn ngờ, thời biên vào sổ Hoãn quyết, giam lại chờ thẩm. Hễ tình nên thương, tội nên giảm, thời biên vào sổ Căng nghi mà xin giảm, chước định từng việc cho thỏa đáng mà đệ về; đến khi tòa Pháp tư xét bàn dâng lên và đình thần phụng chỉ xét lại, hễ tình tội nên giảm hoặc nên quyết, mà nguyên án nghĩ chưa hiệp, thời cứ trích từng khoản tâu lên. (Như tình tội thiệt nên thương nên giảm, mà nguyên á nghĩ lưu giam, thời tâu xin xử trị, không được theo nguyên án làm cẩu thả cho rồi việc, cũng không kỳ đã phát thẩm mấy lần hay chưa, phải cứ trích từng khoản tâu lên). Còn bao nhiêu tội nên lưu giam thời làm riêng ra một sổ, tâu lên chờ chỉ. Đến như các phạm tội chưa nên quyết (như bệnh điên giết người, nên giam cấm lâu, và nguyên án định tội trảm giảm mà tạm tha về nuôi cha mẹ, với lại can bồi chưa thanh thời do các địa phương và tòa Pháp tư làm riêng ra một sổ, để đăng án đình thẩm cho bớt phiền, đợi sau sẽ hay. (Các phạm bệnh điên, khi nào khỏi thời tha ngay; các phạm tạm tha về nuôi cha mẹ, xong rồi thời giải tới quan giam lại) Ngài y theo.

Tháng 3, tỉnh Sơn Tây có mưa đá to như nắm tay, như cái đấu, sấm gió nổi lên, dân gian tổn hại nhiều.

Tháng 4, có 1 chiếc tàu hỏa nước Xích Mao chạy vào cửa biển Hải Dương. Khi ấy Thương Chánh làm rồi, tàu các nước đến buôn, y trong lời ước kiểm hàng hóa mà đánh thuế.

Mới định lệ "thuế đinh điền bốn ban lưu dân" (Tân Mỹ, Tân Hỷ, Tân An, Tân Bình ở Quảng Yên). Tháng 5, tỉnh Cao Băng mưa xuống như hột gạo đen.
Tháng 6, Pháp Soai sai chiếc tàu hỏa hiệu Bô lim đi tuần trấp giặc biển.

Khiến các tỉnh Bắc Kỳ thân sức các cửa Ải, cửa Biển xét hỏi những người buôn nước Tàu, không có văn bằng thời bắt giải ngay.
Đưa một bộ luật cho quan Khâm sứ Hoắc Đạo Sinh. Ông ấy có nói bộ luật nước ta tinh tường và đích đáng lắm, muốn mua mà học, nên Ngài truyền đưa cho một bộ.
Tháng 7, bộ Ngự chế việt sử tổng vịnh làm rồi, ban cấp cho trong ngoài.

Tháng 8, khiến Lãnh sự ở Gia Định là Nguyễn Thành Ý đem các đồ thổ nghi qua nước Pháp đấu xảo (trường đấu xảo tại thành Pha Lê); nhưng chờ đến tháng 10 đi với Sứ bộ qua tặng hảo một lần cho luôn.

Tháng 9, Pháp soái ở Gia Định là Du Bi về Tây, ông La Phong tới thay.

1 Mưu sát: lập mưu giết người. -Cố phạm: cố tâm giết người. - Cố phạm: cố ý phạm phép luật.

2 Hộ: cây thế làm hại người. - Chung: phạm tội nhiều lần.

3 Vũ văn: sính nghề văn án.

Ngài nghĩ quan Khâm sứ Hoắc Đạo Sinh biết ham học, khiến đưa bộ Ngự chế việt sử tổng vịnh qua tòa Sứ.

Tháng 10, cho Nguyễn Tăng Doãn và Tôn Thất Phan Hoàng Văn Vân sung sứ bộ qua Tây. (Khi trước đình thần cử Trần Hy Tăng làm Chánh sứ, rồi bị đau mất); cho đem theo đạo sắc dụ Toàn quyền đại thần để phòng khi giao thiệp cho tiện. (Ngài nghĩ năm trước nước Pháp tặng cho tàu, súng, ta chưa có lễ đáp lại, nên nay mới khiến sứ qua).

Tháng 11, thự Tuần phủ Hà Nội Nguyễn Hữu Độ tâu sửa chánh trị trong nước và phòng bị giặc ngoài. Đại lược rằng: "việc nước cũng như việc nhà, trong nhà mà rào dậu bền vững, con em khỏe mạnh, thời nếu trộm cướp ở bên, cũng phải xếp mưu gian. Hiện bây giờ giặc giã luôn năm, của hết sức yếu, mà ý người ta lại muốn trái lời thề, kiếm chuyện sanh hiềm khích, thế ta chưa làm chi được. Vậy xin mở lòng thành thiệt, tỏ lẽ công bằng, ngoài thời khoản tiếp cho khéo để yên lòng người ta, trong thời nuôi dân ta và vững bờ cõi ta, để dưỡng cho con em sức mạnh, giữ cho rào dậu vững vàng. Lại xin chia trong nước làm 5 đạo: Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Nghĩa, làm đạo Kinh trực; Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa làm một đạo; Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Hà Nội, Ninh Bình làm một đạo; Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Quảng Yên làm một đạo; Bình Định trở vào nam làm một đạo; mỗi đạo xin đặt quan Tuyên sát kinh lược truất đại thần, phàm việc thuộc về đạo nào giao cho quan Tuyên sát kinh lược đạo ấy coi xét, những kẻ thân hào thổ trước người nào dùng được thời quan tuyên sát kinh lược tâu xin lục dụng; khiến cho trong ngoài có người ký thác, giữ gìn mà tiếp ứng với nhau". Ngài khen. Nhưng rồi không thấy thi hành.
Tháng 12, khiến tư các tỉnh Nam, Bắc hỏi tìm những sách sót của các đế vương nước ta xưa làm ra. (Vua Nhơn Tôn nhà Trần khi ở chùa làm ra bộ Đại Hương Hải ấn thi tập, vua Anh Tôn làm bộ Thủy vân tùy bút 2 quyển, vua Thánh Tôn nhà Lê làm bộ Văn minh cổ xúy 2 quyển).
Năm Mậu Dần thứ XXXI (1878), tháng giêng, ngày mùng 1, bân ân chiếu Ngũ tuần cả thảy 17 điều ra khắp trong ngoài.
Cấp phát ra Hà Nội những súng, đạn, của Đại Pháp tặng hảo (100 khẩu súng).

Tháng 2, cho Phạm Văn Nghị khai phục Hàn Lâm viện thị giảng, vì Văn Nghị là người có học hạnh tiết nghĩa, làm khuôn phép cho tỉnh Nam.

Tháng 3 đào sông Thông Thương ở tỉnh Hưng Yên. (Theo trong thương ước khoản thứ 10, thuê đào hết mấy, trích khâu tiền thuế).

Tỉnh Quảng Trị có Linh mục người nước ta tên là Lê Án can án "mưu tụng giao thoan1 tụ chúng hiếp quan", (làng Xuân Hòa kiện, tra ra tên Aán thú nhận). Triều đình theo luật "giáo toa" định tội mãn trượng lưu2. Khi ấy các Cố đạo và dân đạo phạm phép, quan Soái nước Pháp thường đưa thơ xin ta tra hỏi, cứ chiếu theo lời hòa ước và luật lệ mà trị tội).

Mới đánh thuế mỏ than tỉnh Quảng Yên (khách buôn nước Tàu là Ngô Nguyên Thành xin lãnh trưng. Triều đình lại khiến quan tỉnh Thái Nguyên khám các mỏ vàng, bạc, chì, diêm khi trước đã cấp lại, nay có nên mở, thời cho người lãnh trưng, để thâu hết địa lợi).

Tháng 4, mới mở nha Thương chánh và trường học chữ Tây ở Hải Dương.

Bùi Ân Niên đi sứ Tàu về. (Tháng 8 năm Bình Tý qua Nam Quan, tháng 3 năm nay về đến Nam Quan).

Người nước Pháp là Bô Đi, Mã Đô, người nước Y Ta Ly là Lạc Ô, Kha Na Cờ Ly Ô, mấy lần đưa
thơ đến. (Bô Đi xin khai trưng mỏ than ở Quảng Yên, Ma Đô xin làm đàng, nấu rượu và làm rượu mạch nha (là rượu bia), nhưng xin cấp tiền công, sau sẽ làm đồ máy dâng nạp; Lạc Ô xin nước ta đặt chức Lãnh sự coi việc nước nó; Ly Ô xin đặt nó làm Thống lãnh sự nước nó). Đều do quan Khâm sứ Đại Pháp

1 Giao thoan: là thầy kiện; mưu tụng: mưu cho người ta đi kiện.


2 Mãn thượng lưu: tội đánh một 100 trượng và phát lưu 3.000 dặm.

đệ qua quan Thương bạc, quan Thương bạc hỏi quan Khâm, quan Khâm trả lời: "bọn ấy nói không căn cứ vào đâu, không cần phúc thơ làm gì". Rồi bọn ấy lại đưa thơ xin ta phúc cho, ta lại thương qua Khâm, quan Khâm phúc lại bảo ta đừng cho.

Tháng 6, Tổng đốc Hải Dương Phạm Phú Thứ xét con sông chảy qua làng Quang Dực, Đông Lôi (thuộc tỉnh Bình Giang) nhỏ hẹp và quanh co, bắt dân đào để thông đàng vận tải, đào rồi mới tâu. Ngài quở rằng: "Phạm Phú Thứ nghĩ của dân và sức dân là nhỏ mọn hay sao?". Truyền chỉ giáng lưu.
Tháng 7, Tuy Lý quận vương Miên Trinh soạn dâng thơ "Tự Đức thánh đức" và bài tựa để chúc khánh tiết. Ngài ban khen.

Tháng 8, Sứ bộ qua Tây về. Gặp tiết Đại Khánh, Ngài ngự điện Cần Chánh làm lễ Khánh hạ, ban 34 điều ân chiếu ra khắp trong ngoài.

Tháng 9, bọn tướng nước Tàu là Lý Dương Tài (nó nguyên là Hiệp trấn châu Tằm, khi trước sai người qua Hà Nội, Sơn Tây hỏi việc mật mà không có văn bằng, ta đưa thơ qua quan Đốc phủ Quảng Đông và Quảng Tây tra hỏi, vậy nên nó phải cách chức) đánh cướp thành Lạng Sơn, quan quân ta đánh đuổi được.
Tháng 10, cho thông lục các điều khoản nghị định học chữ và tiếng nói các ngoại quốc (tử đệ nhà quan chừng 20 tuổi, hễ qua Hương Cảng và Tây đi học, thời chiếu theo lệ cấp tiền lộ phí, hạn cho 5 năm thời về; Triều đình sẽ xét như học được chữ, tiếng một nước, hay là học được một nghề như: đóng tàu, đúc súng, chế đồ binh khí, khai mỏ, tập quân, thời chiếu lệ Tú tài hạch đậu bổ cửu phẩm; học được chữ và tiếng 2 nước hay là học được 2 nghề, thời chiếu lệ "cử nhơn không phân số" mà bổ; học được chữ và tiếng 3 nước hay là học được 3 nghề, thời chiếu lệ "Cử nhơn có phân số" mà bổ; đều cho ra làm quan ngay).

Tháng 11, cho Nguyễn Hiệp làm Chánh sứ qua Xiêm. (Vì mới rồi đây tỉnh Nghệ An có sai Cao Bỉnh Tâm qua Trấn Ninh, bị binh Xiêm bắt lầm, Xiêm khoản đãi đưa về, đến đây lại đưa thơ xin hòa hảo như cũ, nên ta khiến Sứ qua).
Tháng 12, mới đánh thuế mỏ sắt Bàn Giảng thuộc về huyện Lập Trạch tỉnh Sơn Tây (đồng niên nạp 300 cân sắt).

Ngài hỏi Nguyễn Tăn Doãn, Nguyễn Thành Ý việc qua Tây thế nào, hai ông ấy đem đầu đuôi phúc tâu lên.
Cấp tiền gạo cho người Bút Tu Kê bị phong nạn. (Bút Tu Kê là nước Bồ Đào Nha, tiếp giáp với nước Y Pha Nho).

Quan Đề đốc tỉnh Quảng Tây Phùng Tử Tài đem 26 đinh quân qua cửa ải hội đánh giặc Lý Dương Tài.

Năm Ký Mão thứ XXXII (1879), tháng giêng, nhơn năm ấy gặp tiết Hoàng thái hậu thất tuần đại khánh, ban xuân thu ân chiếu 14 điều.

Khiến nguyên Khâm phái qua Tây đấu xảo là Nguyễn Thành Ý đem đồ đệ qua học trường Cơ khí ở cửa Thu Long nước Pháp.

Tháng 2, cho ngài Hoàng tử thứ 2 ra ở nhà Chánh Mông (Làm ở mé tả nhà Duyệt Thị). Ngày Bính Thân, Hoàng Tôn Sanh. (Tức là đức Thành Thái).
Tháng 3 nhuận, Ngài nghĩ năm nay gặp thánh nhuận, lúa cấy sớm tổn nhiều, sắc xuống Khâm thiên giám phải dự tính lịch năm sau, như nhuận về tháng nào, thời trong tháng 6, tháng 7 năm nay phải xét trước tâu lên, rồi chuẩn cho thông lục khắp trong ngoài, để biết thời hậu mà làm ăn. Ngài lại nghĩ các sách Tây như: sách Bác vật tân biên nói thiên văn địa khí có quan hệ với phép làm lịch; cùng các sách Vạn quốc công pháp, Hàng hải kim châm, Khai môi yếu pháp đều là học thiết thời vụ, khiến quan tỉnh Hải Dương in cho nhiều mà bán, để quan, lại và học trò học tập cho biết mà dùng. (Đến năm thứ 34, tháng 7 nhuận, lại khiến tỉnh Hải Dương khắc in bốn bộ sách ấy ban cấp cho các trường học trong ngoài).

Tháng 4, lại nghiêm cấm gạo Bắc Kỳ không cho chở xuất cảng.

Tháng 5, Nguyễn Hiệp đi sứ Xiêm về, Ngài hỏi tình thế nước Xiêm, Hiệp tâu: "chúng tôi hỏi thăm nước ấy khi trước có người nước Bút Tu Kê ở đó buôn bán, thời tình thế phương Tây cũng đã hơi biết; đến khi người nước Anh đến cầu thông thương, nước ấy hòa với nước Anh, nên Anh không gây oán được; vì thế đã không mất đất, mà lại được giảng hòa với chín nước (Pháp, Y, Phổ, Ý, Tây Ba Nha, Hà Lan, Bút, và Anh). Chức Lãnh sự thời cho Anh làm đầu, qua lại giao tiếp, không trở ngại gì cả, mà nước Xiêm vẫn giữ quyền, người ngoài không hiếp chế được." Ngài truyền rằng: "bọn Nguyễn Hiệp đi sứ chuyến nầy khó nhọc". Cho tùy bậc ban thưởng.

Tháng 6, quan Pháp soái ở Gia Định là La Phong về nước, Lư My Đa đến thay; quan Khâm ở Kinh là Hoắc Đạo Sinh về nước, Lê Na đến thay.

Khi trước đình thần trù nghĩ việc xử trí giặc Tàu: hoặc xin trích giao quan Tàu xét nghĩ, hoặc xin giao các tỉnh ngoài biên nghiêm nghĩ, cả thảy 5 khoản: 1. Rõ bày phép quan cấm; 2. Xử trí bọn lưu dõng; 3. Lượng để quân lại đóng giữ; 4. Chiêu dụ bọn giặc đầu thú trở về; 5. Ngăn rào từng đám, để dân dõng ở đoàn kết với nhau. Ngài khiến giao cho Tổng đốc Hoàng Tá Viêm duyệt lại, Tá Viêm xin theo như lời đình thần bàn; Ngài mới truyền làm thơ đưa qua tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và quan Đề đốc Phùng, xin xét từng khoản mà làm.

Khiến các địa phương xét mộ người nào ưng học tập chữ và kỹ nghệ nước Pháp thời kê tên tâu lên. ruộng.

Tháng 7, cho làng Bồ Đề tỉnh Quảng Nghĩa quyên mượn 350 quan tiền kẽm để chế xe nước làm Sách Thiệt lục chánh biên triều Hiến Tổ Chương Hoàng đế làm rồi. Tháng 8, khiến các địa phương khuyên dân khẩn ruộng.

Tháng 9, sứ nước Ý là Đôn Man Cô Ra Đô Nê đến Kinh. Ngài cho Thượng thơ Đỗ Đệ và Tham tri

Hoàng Diệu sung làm Chánh, Phó Toàn quyền đại thần, hội bàn thương ước.
Cấp tự điền để thờ quan Trung quân Nguyễn Văn Thành và Tả quân Lê Văn Duyệt.
Quan quân ta cùng quân Tàu bắt sống được tướng giặc Lý Dương Tài ở sau núi Giả Nham (Thái Nguyên) giải về Tàu.

Tháng 10, tha giảm thuế ruộng mùa thu bị tai cho các địa phương. Tháng 11, cấm tiêu hiệu tiền ngụy của khách buôn nước Tàu.

Tháng 12, nươc ta cùng nước Y Pha Nho định thương ước rồi (12 khoản).
Năm Canh Thìn thứ XXXIII (1880), tháng giên, ngày mùng 1, quan Khâm sứ Lê Na vào làm lễ mừng.

Mới đặt cho Lạng Giang và đạo Đoan Hùng; cho Hoàng Tá Viêm kiêm làm Tịnh Biên sứ hai đạo ấy. (Trương Quang Đản làm Tịnh Biên phó sứ đạo Đoan Hùng).

Tháng 2, Tổng đốc Quảng Đông, Quảng Tây đưa thơ nói việc thám bắt những giặc còn sót. Ngài khiến đình thần phúc thơ lại cho khéo.

Quân Khâm sứ xin lập sở Điện báo tại Bắc Kỳ. (Từ Hà Nội qua Hải Dương và Ninh Hải thẳng đến Đồ Sơn). Ngài khiến Viên ngoại bộ Công Lê Văn Xuân quan hội đồng với phái viên các tỉnh khám mà làm.

Tháng 5, quan Soái Pháp ở Gia Định là Lư My về nước, Lê My đến thay.

Tháng 6, khiến Sứ qua cống Tàu. (Cho Nguyễn Thiện Thuật, Trần Khánh Tiến, Nguyễn Hoang sung Sứ bộ).

Sứ nước Y lại đến, cùng nước ta hai bên giao tờ thương ước.

Tháng 9, Tổng dốc Sơn Tây Võ Trọng Bình vào chầu, Ngài hỏi: "Khanh trị dân thế nào mà dân yêu?- Tâu rằng: tôi chỉ cấm ngăn thuộc lại, nghiêm trấp trộm cướp và sức phủ huyện phàm tạp tụng không được giam lâu; mỗi năm đến kỳ thuế, cũng phải đi đi đến nơi mà coi ngó; tôi chỉ làm những việc tôi biết đó mà thôi".
Tháng 10 ở tổng Canh Nông tỉnh Hưng Yên, lúa đã cắt rồi lại mọc lên, ước chừng năm sáu mẫu, tốt lạ lắm. Tuần phủ Nguyễn Văn Thận đem việc lúa ngoài đồng sanh lại tâu lên. Đến khi lúa chín, Tú tài Nguyễn Hữu Đôn đem dâng, Ngài ban thưởng tiền bạc.

Mới đặt đạo Mỹ Đức, bãi 2 nha Sơn Phòng ở Hà Nội, Sơn Tây.

Chức Quảng đới đạo Tuyên Quang là Hoàng Thủ Trung đánh phá đồn giặc ở Đông Viên. Tháng 11, khiến quan quân thứ Thái Nguyên vẽ đồ xứ Ba Để dâng Ngài xem.
Truy thọ cho Thị giảng Nguyễn Mậu Kiến hàm Bố chánh sứ. Vì khi trước Kiến có xin quyên hơn 200 mẫu ruộng tư để làm lương điền nuôi lính, việc chưa rồi mà mất, người con cứ số ruộng ấy đem cho các làng. Quan tỉnh Nam Định tâu lên, Ngài khen có lòng hiếu nghĩa, nên truy thọ để khuyến khích người khác.

Năm Tân Tỵ thứ XXXIV (1881), tháng giêng, khiến bộ Hộ trù nghĩ lấy các mỏ vàng, bạc, đồng trong nước.

Tháng 2, quan Khâm sai nước Pháp Lư Kỳ Lô đến Hải Dương thương thuyết việc buôn.

Hàn Lâm viện tu soạn Phan Liêm mật tâu các việc như là: mở thưởng cuộc hợp vốn đi buôn, mở các mỏ, học tập tiếng nói và kỹ nghệ cơ xảo ngoại quốc. Ngài khiến Cơ mật duyệt lại. Rồi Cơ tâu: "khoản khai thương không tiện, còn các khoản kia xin tư các tỉnh hiểu xét, có ai xin đi mở mỏ và đi học thời tâu về sẽ nghĩ". Ngài ban rằng: "kẻ lão thành lo việc nhà nước, chẳng việc gì là chẳng xét kỹ, nhưng nên làm thế nào cho nàgy càng tấn tới, nếu không tới thời tấp phải lui".
Tháng 3, quan Đại Pháp là Cư Cờ Rút đến cửa biển Bình Định kiểm xét thuế lệ.
Người coi thuộc Chiêu Thương là Đàng Đình Canh đến Kinh xin lãnh việc vận chở, Ngài khiến đãi yến ở bộ Lễ và ban cho vật hạng.

Nguyên Hiệp đốc Tôn Thất Thuyết (năm Tự Đức 32 xin về Thanh Hóa dưỡng bệnh) từ Thanh Hóa, về, xin vào chiêm bái. Ngài nghĩ Thuyết còn thác cớ tránh việc, chưa chịu biết lỗi. Không cho vào chầu. Thuyết sợ, liền tâu xin chịu tội. Ngài ban rằng: "tánh mầy kiêu căng mà lượng mầy nhỏ, nên cố công học vấn hàm dưỡng, mới thành người khác được".

Khiến Thị lang bộ Lễ Phạm Bính qua Hương Cảng bán tàu hiệu Lợi Tải, hiệu Thuận Tiếp, mà đặt làm tàu hỏa hạng trung, đem 12 tên học trò nhỏ giao cho người Tàu ngụ ở Hương Cảng là Thạch Thanh Tuyên dẫn tới học trường nước Anh.
Khiến Tu soạn Phan Liêm qua Quảng Yên hội khám mỏ than.

Tháng 6, tạm tha cấm thuyền buồm mua gạo (từ tháng 7 nhuận đến tháng 8 hết hạn) ở các tỉnh: Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nội; sau vì sứ nước Pháp thương thuyết lại, thì cấm thêm một tháng nữa.
Tháng 7, nước Y Pha Nho đưa thơ cho quan Thương bạc nước ta. (Trong thơ nói việc bồi bạc và điều ước việc buôn mới định đó) vua nước ấy còn chờ bộ Bách tánh cộng đồng nghị định lại, rồi sẽ trả lời).

Khâm sứ Lê Na đến cửa Thuận. (Ông Sâm Bô đổi làm Lãnh sự Ninh Hải). Khi đến sứ quán rồi, có dâng tờ chúc, Ngài khiến quan ban trú đáp tạ lại.

Tháng 7 nhuận, quan Thủy sư Tổng thống Pháp là Đa Phù Cô đến Hải Phòng, Hải Dương làm việc quan; rồi qua Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Sơn Tây, Hưng Hóa, Mỹ Đức đi du thám, lại khiến quan Thương tá Ô Một qua Lạng Sơn.

Khiến các quan chánh khanh thường khi qua lại thăm viếng quan sứ Đại Pháp (mỗi tháng một lần, hoặc hai tháng một lần).

Tháng 8, bàn định việc chiêu thương và thâu tải đồ hàng hóa. Vì năm sau quan Tàu là Đàng Đình Canh lãnh việc vận chở, nên Ngài khiến các quan bộ định trước.
Tháng 9, xét hạch các người được dự cử có văn học là Võ Như, Nguyễn Hoàn Hoành, Đỗ Huy Liêu để siêu thăng bổ dụng.

Tháng 10, Phái viên đi khám mỏ Quảng Yên là Phan Liêm đem phép thí nghiệm than mỏ trình viện Cơ mật, (nói than mỏ có 2 thứ: một thứ than cứng, một thứ than mềm; lại nói than khô nên dùng dầu thông và dầu hoặc ngào luyện thành miếng mà dùng). Quan Cơ mật tâu xin chờ lấy được sẽ giao cho tàu hỏa y phép thí nghiệm.

Khiến Tả thị lang bộ Lễ Trần Thúc Nhẫn vào Gia Định. Khi ấy thơ nước Pháp nói quân Lưu Vĩnh Phúc trở việc buôn, nên Ngài khiến Thúc Nhẫn vào cãi lẽ.

Nước Pháp phái người quan xem các mỏ ở Quảng Nam và Bắc Kỳ.

Tháng 11, khiến Thống đốc Tam Tuyên là Hoàng Tá Viêm xử trí việc Lưu Vĩnh Phúc; là vì sứ Pháp nói trở việc buôn.

Khiến Thượng thơ bộ Hình Phạm Thận Duật kiểm lại bộ Việt sử cương mục. (Đến tháng 5 năm thứ 35 kiểm xong, xin giao tỉnh Hải Dương khắc bản in phát).

Tháng 12, nước Y dâng tặng khánh vàng hạng nhứt, lại gởi tặng khánh vàng cho các quan đại thần là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Phạm Phú Thứ, Hoàng Diệu.

Khoa đạo Lê Đỉnh từ Hương Cảng về. (Khi trước cùng với Phạm Bính qua Hương Cảng) Ngài hỏi: "có nghe thấy gì và người ta có nói đến việc gì ở nước ta không?. Đỉnh tâu: các nước bên Thái tây giàu mạnh chẳng qua nhờ việc buôn và việc binh mà thôi; dùng binh để giữ nghề buôn, dùng nghề buôn để nuôi binh, nên chỉnh đốn việc thông thương là cần thấp hơn. Gần đây nước Nhật Bản bắt chước Thái Tây, thông thương khắp các nước, nước Tàu cũng làm theo cách ấy, lần làn cường thạnh được, hoặc có kẻ nói sản vật nước ta vẫn nhiều. (Như vàng, bạc, than mỏ), người thông minh cũng đông, nếu hay gắng sức mà làm, thời việc giàu mạnh cũng chẳng khó gì, chỉ vì văn thơ phiền quá và việc làm hay câu nệ lắm thôi".

Khi trước Tổng đốc Quảng Đông, Quảng Tây là Trương Thụ Thanh tư tờ nói ủy Đàng Đình Canh đốc đồng với tỉnh thuộc là bọn Mã Phúc Bý qua xét đàng sông và tính việc vận chở. Đến đây Đình Canh tới Kinh, Ngài khiến quan Thương Bạc là Trần Thúc Nhẫn khoản tiếp. Đình Canh nói: "quan Khâm sai nước Tàu tới trú ở nước Anh tên là Tăng Ký Trạch có báo rằng: Lãnh sự Pháp là Thoát Lãng đã xin một hai ngàn quân đánh lấy đất Đông Kinh nước Nam, Nghị viện đã y rồi; nay mai sẽ đem binh Pháp qua và các đạo binh ở Tây Cống đến một lần, đánh tiếng nói đuổi Lưu Vĩnh Phúc chẳng qua thác từ đó thôi; nước Nam nên chóng bàn mưu mà giữ nước".

Năm Nhâm Ngọ thứ XXXV (1882), tháng giêng, tàu nước Pháp đến cửa Lục tỉnh Quảng Yên tìm lấymỏ than ở Hà Lâm.

Khiến Lang trung bộ Binh là Nguyễn Lịch đi từ Quảng Nam trở vào, vẽ hình thế núi sông và đàng sá các tỉnh, hạn 6 tháng thời về; nhưng khi về lại phải vẽ đồ phủ Thừa Thiên từ núi đến biển và tiếp giáp Quảng Trị, Quảng Nam rồi đều biên rõ ràng.
Tàu Pháp đến Bình Định, Phú Yên thám đo cửa biển và vẽ đồ.

Tháng 2, nước Xiêm đưa thơ và dâng đồ thổ sản. (Thuê thuyền chở vàng, bạc, vải, dầu, chiếu, đến nước ta đáp lễ).

Tàu hỏa nước Xích Mao đến cửa Cù Mông (Phú Yên) xét đo vẽ đồ.

Quan Soái nước Pháp sai tàu binh qua Bắc Kỳ đánh tiếng đuổi bọn Lưu Vĩnh Phúc bảo hộ việc buôn. Ngài khiến Tả thị lang bộ Hộ là Nguyễn Thành ý vào Gia Định đem nguyên ủy phải trái về việc Lưu Vĩnh Phúc và lợi hại ở Bắc Kỳ bàn nói với quan Soái Pháp.

Ba chiếc tàu hỏa của Pháp đậu ở núi Nẹ (về biển Ninh Bình).

Tháng 3, khiến quan tỉnh Ninh Bình đưa thơ trách quan Pháp bội ước, còn ở Kinh thời cũng khiến quan Thương Bạc đem việc hiện tại trách quan Khâm sứ.

Binh Pháp hãm thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu tử tiết. (Khi ấy binh Pháp xông bắn, Hoàng Diệu chia binh cự chiến đã lâu, quân ta cùng quân Pháp đều có bị thương và chết, rồi cháy kho thuốc súng, quân loạn, thành hãm. Hoàng Diệu đến thắt cổ dưới gốc cây trước miếu quan Thánh). Rồi quan Pháp rước quan Aùn sát tỉnh ấy là Tôn Thất Bá về. (Bá chạy qua làng Nhân Mục mà giao thành tỉnh lại, Bá vào thành cùng Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng cố sức thương thuyết quyền nhận tỉnh thành. (Hữu Xứng chạy vào thành cũng bị quân Pháp bắt giữ lại). Khi ấy binh Pháp cư trú ở hành cung. Ngài nghĩ Hà Nội đã sanh sự, khiến Nguyễn Chánh lập tức về đạo Mỹ Đức hoặc phủ Nho Quan chọn nơi trú, cùng Hoàng Tá Viêm kiêm coi việc phòng tiễu.

Ngài nghĩ địa đầu tỉnh Bình Thuận là nơi quan yếu, mới khiến quan tỉnh phòng ngự cho cẩn mật. Khiến quan nguyên Tổng đốc Hà Ninh về hưu trí là Trần Đình Túc sung Khâm sai đại thần đi tàu hỏa Đại Pháp ra Hà Nội, Tịnh Biên phó sứ Nguyễn Hữu Độ làm phó Khâm sai, hội đồng thương thuyết nhận lại tỉnh thành. (Khi ấy Lê Na đưa thơ cho Thương bạc nói: nước Pháp vốn muốn mau xong hòa hảo, xin khiến Tổng đốc mới đi tàu hỏa ra mau mà nhận tỉnh thành).
Khi bấy giờ Pháp phái tuy đã trả thành Hà Nội, mà quân vẫn còn đóng giữ; Thống đốc Hoàng Tá Viêm, Kinh lược Nguyễn Chánh, Bùi Ân Niên dâng sớ xin đánh, Ngài không cho.

Đòi Ông Ích Khiêm đến Kinh. (Khi ấy Ông Ích Khiêm đang cáo bệnh ở nhà, đòi đến Kinh khởi phục hàm Hường lô tự khanh làm Tá lý bộ Hộ).
Truyền dụ quan tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, hiểu dụ bình dân và giáo dân khiến đều an phận.

Khâm sứ Lê Na đưa thơ nói việc phòng bị cửa Thuận An, quan Cơ mật và Thương bạc là Trần Tiễn Thành tâu rằng: "làm rõ hình tích ra, e chỉ thêm điều người ta ngờ; vậy xin thôi việc đắp lũy, mà luyện tập quân ta, khiến cho người ngoài không lường được". Ngài nghe theo.

Tháng 4, Nguyễn Thuật đi sứ Tàu về.

Truyền tứ tế cho quan Tổng đốc Hà Ninh tử tiết là Hoàng Diệu và cấp 1.000 quan tiền.

Khi ấy quan Đại Pháp thường nói: "phải đuổi Lưu Vĩnh Phúc để thông đàng buôn bán, mới chịu triệt binh". Ngài khiến Hoàng Tá Viêm tuân lời dụ về đồn Thuộc Luyện, Lưu Vĩnh Phúc đem hết quân về tỉnh Thái, để tính việc giặc Khách hiểu sức đồn Bảo Thắng dời đi nơi khác.

Tháng 5, Ngài khiến giải quan tỉnh Hà Nội về Kinh hầu án. (Cho Hoàng Diệu được liệt tế nhà thờ Trung Nghĩa; còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Aùn sát Tôn Thất Bá đều bị cách chức hiệu lực, Bố chánh Phan Văn Tuyển cách về làm dân).
Tháng 6, khiến Cửu phẩm Y sanh Nguyễn Văn Tâm qua Hương Cảng học phép trồng đậu ở viện Y Đông Ba.

Mới đặt nha Sơn Phòng tỉnh Hà Tĩnh. (Thuộc địa phận huyện Hương Sơn và Hương Khê, ở khoảng giữa đồn Quy Hợp và đồn Hà Tân).

Bản thảo bộ "Đại Nam nhất thống chí" làm rồi. Ngài nghĩ bản ấy làm từ năm Tự Đức thứ 18 về trước, còn tứ đó về sau, các địa phương xếp đặt thay đổi mới và trung thần nghĩa sĩ cũng còn nhiều, chưa kịp biên nối vào, rồi khiến chép thêm từ năm Tự Đức 34 trở về trước.

Nước Pháp xin lập đồn ở sông Bạch Hạc, Ngài không cho.

Tháng 7, biển Bình Thuận có tiếng kêu như súng lớn, (tiếng vang suốt ra Bắc Kỳ).

Khi bấy giờ nước Tàu nghe tỉnh Hà Nội có việc, Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam đều đem đại binh đóng giữ các nơi dọc biển Tàu; quan Vân Nam Tạ Kỉnh Bưu đem dinh quân qua đến Quán Ty (về huyện Trấn An tỉnh Hưng Hóa), quan Pháp nghe binh Tàu đóng nhiều, cũng đem thêm tàu binh tới đậu tại Sơn Tây, Hưng Hóa và Bạch Hạc. Hoàng Tá Viêm lại gấp đòi Lưu Vĩnh Phúc về đồn Thuộc Luyện.

Tháng 8, ngày Quý Hợi sao sa có tiếng như sấm.

Sao cờ (sao phướn) mọc ở phương đông. (Nửa canh năm mọc ở phận dã sao Dực, sao Chẩn, từ dười mà lên, dưới sắc đỏ trên sắc trắng, dài như tấm lụa, hơn một tháng mới vắn lần, đi đến sao Thiên Lang thời lặn).
Cho ông Hoàng tử thứ ba ở nhà Dưỡng Thiện.

Bộ sách "Minh mạng chánh yếu" thảo lại rồi. Trong sách ấy cả thảy 20 mục: 1. Kính trời; 2. Bắc chước tổ tiên; 3. Hậu đãi kẻ thần; 4. Thể tất các quan; 5. Cầu người hiền tài; 6. Đặt chức quan; 7. Chăm việc chánh; 8. Thương dân; 9. Trọng việc làm ruộng; 10. Chuộng điều kiệm ước; 11. Lễ, nhạc, giáo hóa; 12. Chỉnh đốn việc binh; 13. Cẩn việc hình; 14. Chăm tài chính; 15. Định pháp độ; 16. Chuộng việc văn

17. Sửa việc võ; 18. Rộng phép cho người ta can nói; 19. Giữ vững bờ cõi; 20. Vỗ yêu chốn biên thùy và khoan đãi người nước xa.

Tháng 10, cho quyền Tổng đốc Hà Ninh Trần Đinh Túc lại được về nhà hưu trí như trước; Tịnh Biên phó sứ Nguyễn Hữu Đổ đổi qua Hộ lý tổng đốc Hà Ninh.
Tu chỉnh miếu các đế vương đời trước ở tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Bắc Kỳ.
Tướng giặc Đàm Chí Thành (tức là Đàm Tứ Tỷ) tới đầu thú tại dinh quan Tàu là Tạ Hữu Công. Tháng 11, khiến quan tỉnh Lạng Sơn gởi qua Hương Cảng mua 200 khẩu súng tây, 2 rương thuốc đạn dùng để dùng việc quân.

Năm Quý Vị thứ XXXVI (1883), tháng giêng, quan Pháp soái ở Gia Định là Lê Mi về Tây, Tăm Xung đến thay.
Phong ông Hoàng Trưởng tử làm Thụy Quốc Công, ông Hoàng tử thứ hai làm Kiên Giang quận công.

Tháng 2, thuyền binh nước Pháp đánh hãm thành Nam Định (Đề đốc Lê Văn Điển, Án sát Hồ Bá Ân) ra ngoài thành đánh với quân Pháp từ giờ mão đến giờ ngọ; còn Kinh lược Nguyễn Chánh đóng quân ở làng Đặng Xà (về huyện Mỹ Lộc không dám cứu viện; Điểm chết trận, Oân bị thương, thành liền hãm).

Quân Khâm sứ Lê Na hạ cờ Khâm sứ về nước.

Hai chiếc tàu hỏa nước Pháp tới đậu ở cửa Lục tỉnh Quảng Yên, quân Pháp lên núi lập đồn dựng cờ.

Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản, Phó kinh lược Bùi Ân Niên đánh quân Pháp ở Gia Lâm, tàu binh Đại Pháp chạy về đồn Thủy Hà Nội.
Tháng 3, đặt thêm súng lớn ở cửa đông bắc kinh thành và hai đồn trước và sau bãi Lộ Châu. Giáng Nguyễn Chánh làm Quang lộc tự khanh, còn Võ Trọng Bình, Đồng Sĩ Vịnh thời cách chức hiệu lực; truy tặng Đề đốc Lê Điểm hàm Thống chế và cho dự thờ trong miếu Trung Nghĩa, cấp cho Bá Oân 30 lượng bạc để uống thuốc. Ngài lại nghĩ tuy chưa lấy lại được thành tỉnh, nhưng các quan coi việc không nên để khuyết, cho Tuần phủ Hà Tĩnh là Tôn Thát Trường làm Hộ lý Định An Tổng đốc, còn Bố chánh, Aùn sát, Lãnh binh thời cũng lựa đặt cho đủ chức quan, khiến lập tức tới Nam Định lựa nơi mà ở, để làm việc quan.

Bố chánh Quảng Tây nước Tàu là Từ Diên Húc đem quân đóng giữ tại cửa Ải.

Tháng 4, quan Đại Pháp coi thủy là Vi Ê (lại một tên là Lý Bà Lợi) khiến người bán gạo hiện trữ ở cuộc Chiêu thương tỉnh Hải Dương và thâu các thuế nha phiến thuế gạo xuất cảng, nhập cảng.
Quan quân ở quân thứ Sơn Tây đánh quân Pháp tại Cầu Giấy, quân Lưu Vĩnh Phúc đi tiên phong; quan năm là Vi ê bị chết trận.

Tháng 5, quan Pháp sai người về Gia Định đem thêm tàu binh ra Bắc Kỳ.

Tháng 6, Khâm phái Gia Định là Nguyễn Thành Ý về Kinh. (Quan Pháp Soái sai người bảo Thành Ý rằng: "Mấy lâu ông làm việc ở đây, không bớt được sự biến gì cả; nếu để ông ở lại, sợ hại việc trong 6 tỉnh nầy, xin ông về ngay". Ngài cho Thành Ý cải thự Binh bộ hữu tham tri).

Ngài se, dự làm tờ Di chiếu lập ông Hoàng trưởng tử nối ngôi. Ngày 16, giờ thìn, Ngài băng tại chánh điện Càn Thành.

Đọc tờ Di chiếu tại điện Cần Chánh, Tự quân Hoàng trưởng tử khóc lậy thọ mạng, rồi vào điện Hoàng Phúc cư tang.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét