Sóng Thần


Nam tiến


Nam tiến chỉ sự bành trướng lãnh thổ của Việt Nam liên tục về phương nam trong suốt lịch sử Việt Nam. Lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ
Thời Hồng Bàng
Một số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử đến vùng Thanh Hóa. Sau này nhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã.

Thời bắc thuộc
  Năm 262, lãnh thổ người Việt lệ thuộc vào nhà Đông Ngô của Trung Hoa

Lãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay. Ranh giới lãnh thổ về phía nam đôi khi được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên bởi Mã Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, còn gọi là cột đồng Mã Viện.

Thời nhà Đinh - Lý - Trần - Hồ

Sau khi độc lập khỏi Trung Hoa, Đại Việt thường xuyên có các cuộc giao tranh với Chiêm Thành ở phía nam. Phần thắng thường thuộc về Đại Việt, vốn là nước lớn hơn.

Vào khoảng năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Củ. Chế Củ buộc phải dâng đất của ba châu Bố Chính, Đại Lý (không phải vương quốc Đại Lý) và Ma Linh cầu hòa. Lãnh thổ Việt Nam thêm vùng đất này, nay thuộc Quảng Bình và Quảng Trị.

Năm 1306, thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối giao hảo tốt đẹp, nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Mân. Đổi lại Chế Mân dâng đất cho Đại Việt gồm Châu Ô và Châu Rí. Các vùng đất này được Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, nay thuộc vùng Thừa Thiên - Huế đến một phần Quảng Nam (??).

Những năm đầu thời kỳ nhà Hồ, từ 1400 đến 1403, nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ tới tỉnh Quảng Ngãi ngày nay.

Thời nhà Hậu Lê - Nguyễn

Trong thời kỳ đầu nhà Hậu Lê, Chiêm Thành thường xuyên cống nạp và quy phục.

Đến năm 1470 Chiêm Thành lại sang cướp phá Hóa Châu, vua Lê Thánh Tông thân chinh Chiêm Thành. Năm 1471, quân Đại Việt phá tan thành Chà Bàn (thuộc Bình Định ngày nay), bắt được chúa Chiêm Thành là Trà Toàn. Đất đai Đại Việt được mở đến núi Thạch Bi, nay thuộc Phú Yên. Lê Thánh Tông có khắc chữ vào vách đá trên đỉnh núi, ghi công mở đất và phân định ranh giới. Chữ ấy nay vẫn còn, nhưng nét chữ lờ mờ sứt mẻ, không thể trông rõ được.

Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của chúa Trịnh từ phương bắc, cácchúa Nguyễn đã bắt đầu một công cuộc mở mang bờ cõi Việt Nam về phía nam chưa từng thấy trong lịch sử.

Năm 1611, Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hòa, nay thuộc Phú Yên.

Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.

Trong thời kỳ này, dân Việt ở Đàng Trong, nhiều người bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất vùng đồng bằng sông Cửu Long, làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa) và ở Đồng Nai vốn là đất của Chân Lạp, nhưng không gặp phản kháng gì đặc biệt.

Từ năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp luôn lục đục, và nhiều lần phải cầu viện các chúa Nguyễn can thiệp quân sự. Đổi lại người Việt được bảo hộ khi làm ăn ở Chân Lạp, Chân Lạp phải triều cống và quan trọng hơn là về sau Chân Lạp nhường lại dần nhiều đất cho các chúa Nguyễn.

Năm 1679 có quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình là tổng binh châu Cao, châu Lôi và châu Liêm (Quảng Đông) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3 000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Những người này chia nhau ở đất Lộc Đã (Đồng Nai), Mỹ Tho, ở Ban Lân (Biên Hòa), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương tây, người Nhật Bản, người Chà Và đến buôn bán khá đông.

Năm 1693 vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Kính đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn thần tử cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành. Qua năm sau, đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, rồi đến năm 1697 lai đặt phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Lý (Phan Tri), Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Nước Chiêm Thành từ đây đã bị tiêu diệt.

Năm 1698 chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố của những người Tàu ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phan Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn.

Năm 1708 Mạc Cửu, một người gốc Quảng Đông, bỏ sang ở Chân Lạp từ khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh, chủ sòng bạc và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên, xin thuộc về chúa Nguyễn. Chúa phong cho Mạc Cửu làm chức tổng binh, giữ đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, trấn ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.

Năm 1753, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1755 Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là ??) để chuộc tội.

Năm 1759 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận đang xin chúa Nguyễn phong cho làm vua thì bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn, con Nặc Nhuận, vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn, làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai Trương Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh đem dinh Long Hồ về xứ Tầm Bào (Vĩnh Long bây giờ) và đặt ra ba đạo là Đông Khẩu (Sa Đéc), Tân Châu (Tiền Giang) và Châu Đốc (Hậu Giang). Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản. Đất thuộc 6 tỉnh miền nam Việt Nam bây giờ thì trước đó là đất của Chân Lạp, tuy nhiên trước đó thì Chân Lạp lại là kẻ chiếm đất của Phù Nam đã từng tồn tại từ khoảng thế kỷ 2 đến thế kỷ 9.

Sóng Thần

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét