Tác giả Dr. P. Neis (1888)
Sơ lược tác phẩm
Nhật Ký Trên Biên Giới
Việt-Trung 1885-1887 (NKTBGVT) in nǎm 2002 là ấn bản Việt ngữ lần đầu tiên do
Sông Hồng www.viettrade.net dịch từ tác phẩm Anh ngữ The
Sino-Vietnamese Border Demarcation 1885-1887 người dịch Dr. Walter E.
J. Tips thuộc nhà xuất bản Sen Trắng in nǎm 1998 tại Thái Lan. Bản dịch Anh ngữ
từ nguyên tác Pháp ngữ Sur Les Frontières du Tonkin 1885-1887 của
Bác sĩ P. Neis in trong tuyển tập Le Tour du Monde Vol. 55,
pp. 321-112, in nǎm 1888 tại Pháp.
NKTBGVT là một tác phẩm vǎn học sử đặc biệt quan trọng. Nó là một áng vǎn
chương lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã mô tả bằng chứng cứ cụ thể việc
hình thành đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa trong các nǎm 1885-1887.
Chính tác phẩm cho chúng ta biết vì sao đường biên giới Việt-Trung được vẽ như
thế và nó mô tả một cách khách quan chi tiết những sự ký kết hiệp định và những
biến cố đã xãy ra trong gần suốt chiều dài biên giới. Nó cũng cho thấy những
chi tiết quan trọng là những đầu mối những suy tư và tìm hiểu mới về các vấn đề
biên giới Việt-Trung. Nó cũng chính là một bản báo cáo đặc biệt gồm 6 bản báo
cáo nhỏ liên quan đến toàn biên giới. Tác phẩm còn có thể được xem là một tường
trình đặc biệt quan trọng dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Biên giới tại Bắc Kinh
ngày 26 tháng 6 nǎm 1887.
NKTBGVT là một tác phẩm vǎn học sử vì nó chính là một áng vǎn chương trữ tình,
đầy kịch tính phiêu lưu và dân tộc tính Việt Nam do một người Pháp viết. Trong
rất nhiều trường hợp Bác sĩ P. Neis đã nói về những tình cảm riêng tư của mình
hoặc đôi lúc xen lẫn lòng yêu nước của những người An Nam, Bác sĩ P. Neis còn
mô tả những chiều mưa trên biên giới, có khi nắng đẹp chan hòa, nhưng cũng có
những đêm mưa như trút thác, giòng sông Hồng có lúc êm ái trôi, có lúc chảy xiết
như thác đỗ, ở một số nơi tác giả còn mô tả cảnh sống nghèo khổ bình dị của các
cư dân An Nam vùng biên giới. Ông cũng đã thể hiện một số nét nhân bản của một
vị bác sĩ khi tỏ ra quan tâm đến sức khoẻ của các phu khuân vác người An
Nam như ông đã viết: “Các dân quân người An Nam đã đến từ Châu thổ cũng
không hữu ích trong lúc nhiệt độ thời tiết như thế này; họ ǎn mặc nhẹ, chỉ có một
áo khoác che người như bộ đồ ngủ, chẳng bao lâu họ bị sốt và sưng phổi rất nhiều
và trong lúc không có bác sĩ quân y, tôi đề nghị Thiếu tá Servière thiết lập một
trạm quân y và cán đáng việc này trong khi công việc của tôi là một Ủy viên của
Ủy ban Phân định Biên giới cho tôi có thì giờ. Ngoài ra, những bệnh nhân đặc biệt
từ Lạng Sơn đến Thất Khê là các lao công khuân vác đi từ Lạng Sơn đến Thất Khê
qua ngõ Ðồng Ðǎng để cung cấp tiếp tế cho quân trú phòng. Tôi đã chǎm sóc họ tới
hết khả nǎng tôi, trong các cǎn lều trống tứ bề, trong đó có các kệ làm bằng
tre được dành làm giường bệnh, nhưng tôi đã mất một số người trước cuộc tấn
công của bệnh sốt cảm lạnh chết người này.”[1] Nhiều
lần Bác sĩ P. Neis còn nói về những nét đặc biệt của người Việt Nam vùng biên
giới, những thói quen và cách sinh hoạt của họ giữa thời buổi Việt Nam bị Pháp
xâm lǎng: “Làng An Nam Phaisam tọa lạc khoảng một cây số rưỡi cách cổng
Trung Hoa Chima; chính tại đó chúng tôi phải thu xếp cho chúng tôi trong các trại
có hố chiến đấu Trung Hoa. Gần với cổng làng, một người trưởng lão An Nam, ông
huyện truởng người có ảnh hưởng lớn trong vùng, dẫn theo khoảng hai mươi người
dân quân trang bị khá nghèo nàn và đi sau một lá cờ của chính quyền bảo hộ, nền
vàng có chiếc du thuyền Pháp.”[2]Sau đó ông mô tả một vài người
Man thuộc dân tộc Việt Nam ra sao: “Khi chúng tôi trở lại Phaisam, mưa đã ngừng
và Vi-Van-Li mang đến cho chúng tôi vài người Man từ Mẫu Sơn đi kèm theo một
người đàn bà.
Những người thuộc bộ lạc núi này đã nhận sự thẩm quyền của người An Nam thì nhỏ
con và thấp - người đàn bà chỉ khoảng 1 thước 40 - lực lưỡng, các bắp chân đã
phát triển, vai rộng, mặt trông giống khuôn mặt người Thô, nhưng với chiếc mũi
không cao và nước da nhạt hơn. Giống như người Thô họ đã sống trong các cǎn nhà
dựng cột, nhưng luôn luôn bên trong dẫy núi. Người ta chỉ có thể tới họ bằng
phương tiện những lối đi rất dốc: cũng như họ không có ngựa hay trâu; họ mang
các khối nặng trên lưng trong những chiếc giỏ tương tự như người bộ lạc núi
Ðông Dương, tức là, giữ trên lưng với hai ây đai luồn qua vai và chiếc đai thứ
ba đi qua phía trước như cái đai đầu.”[3]
Nhật Ký Trên Biên Giới Việt-Trung (1885-1887)
Bản dịch Việt ngữ: Sông Hồng
Những Bản Ɖồ Trên Biên Giới Việt-Trung 1902-1987 bao gồm tất cả bản đồ khi các sῖ quan Pháp tại các quȃn khu biên giới được lịnh vẽ những bản đồ biên giới Việt Nam và Trung Hoa, gồm những bản đồ Quan Ɖội Nhȃn Dȃn Việt Nam (Việt Cộng) và các bản đồ biên giới do Hoa Kỳ vẽ khi họ đến Việt Nam. Những cột mốc được đánh số nguyên thủy và được đọc lại tọa độ trên bản đồ quȃn sự theo các trục tọa độ. Những tấm bản đồ, một số là copies trên phiên bản nguyên thủy này ngày nay đang được lưu trữ.
Đã nhiều lần tôi có « bút chiến » với vị
giáo sư này. Thêm được một lần thì niềm vui càng tăng thêm, không sao hết. Tuy
vậy, như thói quen, các điểm thắc mắc của ông PQT Tuấn thì rất nhỏ, nếu so với
học hàm học vị của ông.
Một số điều quan trọng cần nhắc ở đây cho
vấn đề được rõ rệt hơn. Vẽ bản đồ là một vấn đề kỹ thuật, không phải ai cũng có
thể nắm bắt.
1/ Một thí dụ về hệ quả hình cầu
(géodésique) lên các bản đồ vẽ trên mặt phẳng.
Hai mảnh bản đồ dưới đây thuộc bộ bản đồ Đông Dương, tỉ lệ 1/250.000, vẽ theo hệ thống géodésique. Hai bản đồ này chỉ có giá trị thông tin, nhằm so sánh độ dài hai đoạn biên giới trên hai vĩ tuyến khác nhau, có cùng một cung 15’, cùng trên một đường kinh tuyến.
Bản đồ 1 : góc bản đồ ở vĩ độ 20°, kinh tuyến 107°
Hai mảnh bản đồ dưới đây thuộc bộ bản đồ Đông Dương, tỉ lệ 1/250.000, vẽ theo hệ thống géodésique. Hai bản đồ này chỉ có giá trị thông tin, nhằm so sánh độ dài hai đoạn biên giới trên hai vĩ tuyến khác nhau, có cùng một cung 15’, cùng trên một đường kinh tuyến.
Bản đồ 1 : góc bản đồ ở vĩ độ 20°, kinh tuyến 107°
Hình 3 so sánh hai cung 15’ trên hai bản đồ. Ta thấy độ dài cung ở vĩ tuyến 10° dài hơn cung ở vĩ tuyến 20°. Độ dài khoảng trên 1’.
Điều này cho thấy các đường kinh tuyến không phải là đường thẳng, ngoại trừ đường kinh tuyến được chọn làm trục chính. Các đường vĩ tuyến cũng không phải là đường thẳng. Các cung trên các vĩ tuyến khác nhau có độ góc bằng nhau nhưng chiều dài cung (arc) không bằng nhau. Cách vẽ này nhằm giảm bớt sai số géodésie đem lại do cách vẽ chiếu thẳng (Mercator direct).
Trên các bản đồ này, theo các tính chất nhận được, đã sử dụng phép chiếu Gauss-Krüger, tương tự phép chiếu của bộ bản đồ VN hiện nay. Đặc điểm của phép chiếu này là các phương hướng (đông-tây-nam-bắc) thì không chính xác. Phép chiếu này giống như phép chiếu thẳng, chỉ khác nhau, thay vì mặt hình trụ tiếp tuyến với đường xích đạo, thì lại tiếp tuyến với một đường vĩ tuyến chọn trước (VN chọn đường 6° thì phải).
2/ Sai số géodésie của đường biên giới Việt-Trung
giữa phép chiếu thẳng và phép chiếu UTM.
Ở đây dùng phép chiếu Gauss-Krüger, lấy vĩ tuyến 22°30’ làm trục chiếu, mục đích để nhấn mạnh độ sai số géodésie của phép chiếu thẳng.
Ở đây dùng phép chiếu Gauss-Krüger, lấy vĩ tuyến 22°30’ làm trục chiếu, mục đích để nhấn mạnh độ sai số géodésie của phép chiếu thẳng.
Đường biên giới Việt-Trung, cột mốc số 1
có tọa độ (22°25’48’’ – 102°09’33’’)
Cột mốc cuối có tọa độ (21°28’12’’ –
108°06’04’’)
Cột mốc ở vĩ độ cao nhất là cột số 428
(23°22’47’’ – 105°18’23’’).
Tác giả đã giản lược bớt các số lẻ.
Như vậy đường biên giới Việt-Trung trải từ
kinh tuyến 102°09’33’’ đến kinh tuyến 108°06’04’’. Tức có biên độ 5°56’31’’, hoặc
tính chẵn 357’.
Nếu đường biên giới này ở vĩ tuyến 0°, chiều
dài của nó là : 357’ x 1,851km, tức khoảng 660km.
Trong phép chiếu thẳng, 1’ ở bất kỳ vĩ tuyến nào cũng dài như nhau : 1851m.
Trong phép chiếu thẳng, 1’ ở bất kỳ vĩ tuyến nào cũng dài như nhau : 1851m.
Chiều rộng đường biên giới Việt-Trung vẽ
theo phép chiếu thẳng vì vậy là 660km.
Nếu lấy vĩ tuyến trung bình đường biên giới
Việt-Trung là 22°30’ (trục chiếu), chiều dài 1’ ở vĩ tuyến này tương ứng
1710m.
Bề rộng thật của đường biên giới Việt-Trung
như thế là 610km.
Sai số giữa hai cách chiếu là 50km.
3/ Xét bản đồ dưới đây của các học giả thuộc
Quĩ Nghiên cứu Biển Đông :
Bản đồ này vẽ theo lối chiếu thẳng, bề rộng là 660km.
Bản đồ của CIA, dĩ nhiên vẽ theo hệ thống
tọa độ géodésique, phép chiếu UTM, tương tự như các bản đồ Đông Dương ở trên,
có bề rộng ước chừng 610km.
Hai bản đồ chồng lên vừa khít với nhau.
Sai số 50km đã đi đâu ? Chiều dài này tương ứng một cung có biên độ khoảng
29’30’’, tức khoảng 5 hoặc 6 ô vuông trên bản đồ của các học giả. Đây là khoảng
cách rất lớn để mà “không thấy” trên bản đồ.
Các tác giả không thể chồng bản đồ này lên
bản đồ kia khít khao như vậy mà không có phép “phù thủy”.
Phép phù thủy đó có thể là kéo bản đồ CIA
phình ra, để chiều rộng hai bản đồ bằng nhau.
4/ Xét bản đồ biên giới khu vực Lào Cai của các học giả thuộc Quĩ Nghiên cứu Biển Đông. Đường biên giới khu vực này, theo công ước Pháp Thanh 1887 và Hiệp ước biên giới Việt-Trung 1999, đi qua sông Lũng Pô, sông Hồng, sông Nậm Thi và sông Bá Kết.
4/ Xét bản đồ biên giới khu vực Lào Cai của các học giả thuộc Quĩ Nghiên cứu Biển Đông. Đường biên giới khu vực này, theo công ước Pháp Thanh 1887 và Hiệp ước biên giới Việt-Trung 1999, đi qua sông Lũng Pô, sông Hồng, sông Nậm Thi và sông Bá Kết.
Hai đường biên giới 1887 và 1999 thì trùng
nhau ở đoạn biên giới này.
Những dòng sông này cố định trên quả địa cầu. Như thế, đường biên giới theo những dòng sông này cũng cố định, trên bất kỳ bản đồ nào có cùng tỉ lệ, cùng phép chiếu.
Bản đồ của các tác giả không ghi tỉ lệ,
không một ghi chú bất kỳ. Nó cũng quá nhỏ để có thể so sánh. Dầu vậy ta cũng thấy
được các mốc giới lệch ra ngoài đường đỏ (tức đường biên giới theo bản đồ CIA),
mà đa số chiều dài đoạn này là những con sông.
Sự lệch
lạc này do đâu ?
5/ Đây là bản đồ đoạn biên giới thuộc tỉnh
Hà Giang, của các học giả thuộc Quĩ Nghiên cứu Biển Đông, tương ứng vùng đất Tụ
Long mà VN đã mất cho TQ trong dịp phân định biên giới 1885-1895. Đoạn này
tương ứng các bản đồ 13, 14, 15 và 16 trong bộ bản đồ biên giới 2009.
Ta thấy đường biên giới khu vực này đi qua một số điểm cố định, đó là hai nhánh hợp lưu của sông Chảy.
Ta thấy đường biên giới khu vực này đi qua một số điểm cố định, đó là hai nhánh hợp lưu của sông Chảy.
Theo HUBG 1999, « đường biên giới xuôi
sông Qua Sách… đến hợp lưu sông này với sông Chảy…, biên giới theo sông cho đến
hợp lưu sông này với sông Xiao Bai ».
Theo công ước 1887, « đường biên giới theo
sông Qua Sách, xuôi sông này cho đến hợp lưu của nó với sông Chảy (Hắc Hà), sau
đó theo sông Chảy cho đến hợp lưu sông này với sông Nam-Len (Đông Nhai Hà)… »
Nếu không có gì sai lầm, sông Xiao Bai
cũng là sông Nam-Len (tức Đông Nhai Hà). Như thế đoạn biên giới này, sau khi
phân định lại 1999, thì không thay đổi.
Nhìn lên bản đồ ta thấy các mốc giới lệch
ra ngoài đường đỏ (bản đồ CIA). Một số điểm lệch ra ngoài khoảng 10mm. Điểm
170, tức ngả ba sông, lệch ra ngoài khoảng 5mm.
Điều này vô lý, vị trí các con sông không
thay đổi, đường biên giới cố định, cho dầu ở trên bản đồ của CIA, hay trên bản
đồ cắm theo tọa độ các mốc giới, hay trên bất kỳ bản đồ nào.
Việc lệch lạc này do đâu ?
Việc lệch lạc này do đâu ?
6/ Vấn đề đổi trục: Hai bản đồ chênh lệch
nhau ở chiều rộng là 50km. Các tác giả đã chia đường biên giới thành nhiều đoạn
để vẽ.
Tọa độ các điểm không thay đổi. Bản đồ CIA
không thay đổi. Vậy sai số 50km chạy đi đâu trên các đoạn bản đồ ?
Phép phù thủy ở đây chỉ có thể là dời đổi
trục tọa độ hay dời đổi trục chiếu, sao so các sai số bị triệt tiêu. Nếu lấy một
trung tuyến chuẩn thì dời trung tuyến chuẩn (là trường hợp ở đây). Nếu chiếu
theo phương pháp Gauss-Krüger thì thay đổi trục chiếu. Việc làm này nhằm “tiêu
hóa” sai số 50km (5 ô vuông trên bản đồ), nhưng nó làm cho các đoạn biên giới,
đáng lẽ phải cố định (sông, suối biên giới), thì lại chênh lệch với nhau.
6/ Kết luận:
Theo những chi tiết đã phân tích ở trên, bản
đồ này có độ sai số quá lớn để có thể được nhìn nhận là bản đồ các mốc giới.
(Các trường hợp cắm mốc ở Bản Giốc, Tục Lãm, Nam Quan… tranh chấp hai bên chỉ
vài chục hay vài trăm mét, tương ứng vài giây trên bản đồ, tranh chấp kéo dài
hàng chục năm, cho ta thí dụ cụ thể).
Việc đo đạc của các tác giả làm lãnh thổ
VN rộng thêm vài trăm cây số. Công trình vẽ bản đồ của các học giả này, nói thẳng
ra là một công trình bịp bợm nhằm lường gạt dư luận. Nói là “ăn gian” hay “nói
láo” vẫn còn nhẹ lắm.
Một thông tin sai, cho dầu đã có nhiều học
giả lên tiếng bênh vực, thì cũng không thể thay đổi cái sai thành đúng.
Một thông tin sai, được loan truyền nhiều
lần qua nhiều hình thức, là tuyên truyền.
Hy vọng Giáo sư Tiến sĩ Phạm Quang Tuấn hiểu
được thực chất của vấn đề.
- Về
những chỉ trích của Trương Nhân Tuấn với bản đồ biên giới Việt Trung của Dương
Danh Huy và Phan Văn Song (BoxitVN).- Tổng
hợp tranh luận xung quanh bản đồ biên giới Việt Trung của bác Dương Danh Huy và
bác Phan Văn Song (Quỹ NCBĐ).
- “Kết nối Biển Đông” – hỗ trợ 10.000
ngư dân bám biển (ĐĐK). - Chiến sĩ bảo vệ Trường Sa 1988 vừa
được vinh danh (PNT).
- Lần đầu tiên Kết nghĩa đồn biên phòng hai nước Việt
Nam và TQ (TTXVN). – Khai trương Cơ quan thường trú VTV tại
Trung Quốc (TTXVN).- Việt
Nam – Trung Quốc tạo điều kiện cho cư dân làm kinh tế (VOV). - Nhiều
nghi vấn về vụ tai nạn hàng hải “bí ẩn” trên Biển Đông (GDVN).
- Thử
xét tính « cần thiết và bổ ích » của công trình vẽ bản đồ của nhóm Quĩ Nghiên cứu
Biển Đông. Đồng tác giả "công trình
nghiên cứu công phu", bản
đồ mốc giới Việt Nam - Trung Quốc theo tọa độ từ nghị định thư phân giới cắm mốc, ông Phan
Văn Song lên tiếng trên Bô xít biện hộ rằng bản đồ do các tác giả
này vẽ như thế là « cần thiết và bổ ích », « không có vấn đề gì về kỹ thuật ».
Không thấy tác giả biện luận thế nào về các điểm mà tôi đặt ra trong bài
trước. Nội dung bài viết chỉ nói chung
quanh về các chi tiết kỹ thuật về một cách vẽ
do tôi đề cập tới.
Trọng tâm của vấn đề bàn luận là được hay không được, « vẽ
bản đồ và so sánh bản đồ » như cách mà các tác giả đã làm, chứ không phải là việc
giải trình kỹ thuật về một cách vẽ không liên quan. Nếu cần, ta sẽ trở lại vấn
đề này trong một dịp khác, như để kiểm chứng VN có mất hay không mất đất, là
thí dụ.
Bài này thử xét việc vẽ bản đồ và so sánh bản đồ như thế có
thật sự « cần thiết và bổ ích » hay không ? và nó « không có vấn đề gì về kỹ
thuật » như tác giả khẳng định hay không ? Những chi tiết khác đã nói, ở đây không nhắc lại.
1/ Trở lại cách vẽ của các tác giả. Tôi đã viết và tôi khẳng
định lại :
« Các bản đồ được các tác giả gọi là " bản
đồ mốc giới Việt Nam - Trung Quốc theo tọa độ từ nghị định thư phân giới cắm mốc " đã được thực hiện không theo đúng bất kỳ một qui
cách quốc tế « cartographie – vẽ bản đồ » nào. Cách vẽ của các tác giả là cách
vẽ của con người thời cổ đại, lúc nhân loại chưa biết trái đất có hình cầu. »
Các tác giả cho rằng cách vẽ này là cách vẽ « Mercator »,
theo nhận định ban đầu của tôi trong một comment trên facebook. Thật ra cách vẽ
này không phải là phương pháp mercator (direct), tức phương pháp chiếu thẳng
các điểm thuộc một hình cầu lên một hình trụ có cùng đường kính, như các tác giả
tự nhận (và tôi ngộ nhận). Cách vẽ của các tác giả là một cách vẽ tự tiện.
Thật vậy, trên bản đồ của các tác giả (Hình
1), các đường kinh tuyến và vĩ tuyến được
trình bày cùng một cách thức như nhau, bằng nhau, cách đều nhau.
Trong khi, vẽ theo phương pháp Mercator direct, khoảng cách các đường vĩ tuyến trên mặt phẳng khôngbằng nhau. Các đường vĩ tuyến này được sắp xếp, ở gần xích đạo, hợp cùng các đường kinh tuyến thành hình vuông, càng xa xích đạo các đường vĩ tuyến cách xa nhau, tạo với các đường kinh tuyến những ô hình chữ nhật.
Hình 2 : nguồn internet, có ghi chú trên bản đồ.
Cách vẽ này nhằm mục đích giảm thiểu sai số gây ra do hệ quả géodésie, càng về phía hai cực sai số càng lớn.
Cách vẽ của các tác giả, với các ô « ca-rô » bằng nhau thể
hiện trên bản đồ, không thể nói nó được thực hiện theo phương pháp mercator.
2/ Bản đồ của các tác giả thiếu những ghi chú không thể thiếu
: tỉ lệ và phương pháp vẽ. Trong khi các ghi chú về kinh tuyến và vĩ tuyến thì
lu mờ, không thể nhận diện được cái gì. Không có tỉ lệ thì làm sao so sánh ?
3/ Về các bản đồ của « công trình », ta sẽ lần lược khảo
sát. Xét bản
đồ này :
Đây là đoạn biên giới thuộc tỉnh Hà Giang, tương ứng các bản đồ 13, 14, 15 và 16 trong bộ bản đồ biên giới 2009. Ta thấy đường biên giới khu vực này đi qua một số điểm cố định, là hai nhánh hợp lưu của sông Chảy, tương ứng các nơi ghi chú các mốc giới (?) 165, 170 và 175. Ta thấy các mốc giới lệch ra ngoài đường đỏ (bản đồ CIA). Một số điểm lệch ra ngoài khoảng 10mm. Điểm 170, tức ngả ba sông, lệch ra ngoài khoảng 5mm.
Điều này vô lý, vị trí các con sông không thay đổi, đường
biên giới cố định, cho dầu ở trên bản đồ của CIA, hay trên bản đồ cắm theo tọa
độ các mốc giới, hay trên bất kỳ bản đồ nào. Việc lệch lạc này chỉ có thể do từ
sai số géodésie.
Bản đồ này có lẽ có tỉ lệ là 1/500.000. Độc giả thử đoán độ
lệch trên bản đồ tương ứng với bao nhiêu mét trên thực địa ? Vài mươi cây số phải
không ? VN như thế lợi hàng chục km² đất trong khu vực này. Trong khi khu vực
này có địa danh « núi Đất ». Theo ông Trần Công Trục thì đã nhượng cho TQ.
Một thí dụ khác, ở bản
đồ này. Đây là bản đồ biên giới khu vực Lào Cai. Đường biên giới
ở đây đi qua sông Lũng Pô, sông Hồng, sông Nậm Thi và sông Bá Kết. Đường biên
giới là dòng sông, cố định, ở bất kỳ bản đồ nào có cùng tỉ lệ, cùng phép chiếu.
Ta thấy bản đồ này tỉ lệ quá nhỏ để có thể so sánh. Nhưng cũng thấy được các mốc giới lệch ra ngoài đường đỏ (tức đường biên giới theo bản đồ CIA). Một milimét trên bản đồ này có thể tương ứng hàng chục km trên thực địa.
Những bản đồ khác đều có chung tính cách lệch lạc như vậy.
Với số sai quan trọng như thế, việc so sánh này có giá trị
gì ?
4/ Tác giả nói « không có vấn đề gì về kỹ thuật ». Theo
tôi, những sai sót trên bản đồ, với cách thức so sánh, tự nó tố cáo các sai lầm
sơ đẳng về kỹ thuật của các tác giả.
Các bản đồ này « cần thiết và bổ ích » cho việc chứng minh
các sai lầm của các tác giả.
5/ Tác giả chỉ trích về chi tiết nội dung một đoạn viết
trong bài trước của tôi, dẫn lại :
« Một thí dụ, hình dung quả địa cầu được phân chia thành
nhiều đường kinh tuyến, mỗi đường cách nhau 1’. Lấy hai điểm A và B, giao điểm
hai kinh tuyến kế cận với đường xích đạo, ta có khoảng cách là 1 mille (1852m).
Đoạn AB tưởng là thẳng, nhưng không phải, nó cong (vì trái đất hình cầu). Người
ta gọi đó là « một cung – arc » tương ứng 1’. Nếu lấy hai điểm A’ và B’ tương tự,
giao điểm với đường vĩ tuyến 45°, đường này cũng tương ứng với một cung 1’. Chiều
dài của cung này không phải là 1852m mà là 1852m/2 = 926m. Vì vậy, một đoạn đường
tương ứng với một cung 1’ ở Cà Mau sẽ dài hơn đoạn đường tương ứng một cung 1’ ở
Lạng Sơn.
Nhưng trên một mặt phẳng, hai đoạn AB và A’B’ có chiều dài
bằng nhau. »
Để có thí dụ điển hình về cách mô tả của tôi, thử tưởng tượng
quả địa cầu là một trái cam lột vỏ, các đường kinh tuyến chia trái cam thành
nhiều múi khác nhau, mỗi múi được thành hình do hai đường kinh tuyến liền kề x°
và x°+1’.
Góc được tính là góc của trục địa cầu với mặt phẳng hai đường
kinh tuyến x° và x°+1’.
Trọng tâm trong thí dụ của tôi không phải là tính kích thuớc
các cung AB và A’B’, mà muốn cho mọi người thấy hai đoạn này không bằng nhau
trên một hình cầu nhưng chúng bằng nhau trên một mặt phẳng. Đó là hệ quả
géodésique.
Vẽ bản đồ để so sánh mà không tính hệ quả géodésique thì
còn đâu sự chính xác ?
Điểm khác, người ta vẽ đường kinh tuyến và vĩ tuyến thẳng
chỉ trên các bản đồ thành phố (plan), các bản đồ tượng trưng. Điều tôi nói ở
đây, tất cả các bản đồ (carte) trên thế giới, trong trường hợp tương tự bàn luận
ở đây là để phân định biên giới. Không một ngoại lệ, tất cả các bản đồ đều áp dụng cách chiếu
UTM, theo đó các đường kinh tuyến và vĩ
tuyến không phải là đường thẳng, nó chỉ gần như là đường thẳng mà thôi.
Tác giả đưa ra những tính toán tìm cách bắt bẻ vài chi tiết
trong bài viết của tôi. Các phương pháp tính toán này ta có thể tìm dễ dàng
trên internet. Mục đích của tác giả như để phân bua rằng tác giả là người hiểu
biết. Nhưng việc này trễ quá phải không ? Nếu hiểu biết thì quí vị đã áp dụng
cho « công trình nghiên cứu công phu » của mình rồi !.
6/ Một tác giả khác, tác giả Tô
Oanh, có bài trên Bô Xít, cũng đồng tình với
cách vẽ của các « học giả » này.
Tôi cho rằng đây là sự dễ dãi quá trớn đối với một vấn đề
trọng đại, liên quan đến lãnh thổ của đất nước. Có lẽ tác giả không biết mục đích
vẽ bản đồ của nhóm Quĩ Nghiên cứu Biển Đông. Nhắc lại, mục đích của công trình
so sánh bản đồ này, theo các tác giả, là vì « dư luận đang quan tâm về vấn đề
biên giới trên bộ ».
Kết quả so sánh của tác giả cho thấy VN lợi to trong việc
phân định lại biên giới với TQ. Nhưng có thật thế không ?
7/ Nếu quí vị hài lòng với cách vẽ này, không thấy có nhu cầu
cần thiết phải rút « công trình công phu » này xuống, chấp nhận những phi lý,
phi khoa học của nó, thì tôi không thể làm gì khác, ngoài việc tôn trọng quyết
định của quí vị. Tuy vậy, thái độ của quí vị cũng giải tỏa một thắc mắc từ lâu
nay của tôi. Chế độ độc tài đảng trị CSVN, sự hiện hữu của nó có thể phi lý đối
với nhiều người khác sống trong thế giới văn minh, nhưng nó lại thích hợp với
nhiều người VN. Chấp nhận một cách dễ dàng việc phi lý này thì cũng dễ dàng chấp
nhận những phi lý khác.
- Phan Văn Song : Có thật
vẽ vậy không được? (Boxitvn). Tranh luận quan chuyện bản
đồ giữa Dương Danh Huy và Phan Văn Song với Trương Nhân Tuấn. - Tô Oanh: Đôi điều muốn nói nhân đọc bài của ông
Trương Nhân Tuấn và ông Dương Danh Huy về mốc giới trên bộ giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
- Nga
có cần VN trong chiến lược khu vực? (BBC). . - Chuyên
viên Mỹ: Nga muốn tăng cường quan hệ mạnh mẽ với Việt Nam (VOA).-- Why is China Turning Against the
United Nations?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét